cười giỡn trên nỗi tang thương của dân tộc.
(Vài suy nghĩ rời, dõi theo tâm tình và tư duy của một người trẻ “Bên Thắng Cuộc”,
nhân dịp nhìn lại 40 năm ngày Hànội xua quân xâm chiếm miền Nam Việt Nam).
Trần Phong Vũ
Vào những ngày tưởng niệm 40 năm Hànội nhân danh quốc tế cộng sản khát máu, hung hãn dùng vũ lực bức tử chế độ Cộng Hòa miền Nam, nhiều sinh hoạt đặc thù đã diễn ra trong hầu hết các cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại, từ Âu châu, Mỹ châu, tới Úc châu. Đây là dịp mọi công dân Việt Nam Cộng Hòa cùng ngậm ngùi nhớ lại cái ngày tăm tối phải đành đoạn rời bỏ quê hương ngục tù ra đi tìm tự do.
Riêng tại vùng tiểu Sàigòn, nơi được mệnh danh là thủ đô của người tị nạn, nhiều sinh hoạt liên tiếp diễn ra trong suốt tháng
4-2015.
Trong những ngày này, cờ vàng ba sọc đỏ hiền hòa tiếp tục tung bay trên phố Bolsa, tại công trường chiến sĩ Việt/Mỹ, tại khu tượng đài Đức Trần Hưng Đạo, khu tưởng niệm thuyền nhân cùng với nhiều chương trình phát thanh, phát hình, các cuộc hội thảo, các buổi ra mắt những tác phẩm hồi ký ghi lại thảm cảnh vượt biên, vượt biển đầy gian lao, nguy hiểm của đồng bào kể từ cái ngày oan nghiệt 30 tháng Tư 40 năm trước.
Trong khi ấy, tập đoàn thống trị cộng sản trong nước, như thông lệ, đã tưng bừng kỷ niệm ngày này theo một cung cách khác.
Cung cách kiêu căng, hãnh tiến của kẻ thắng cuộc. Với những lời tuyên bố hung hãn, những cuộc diễu binh hừng hực lửa oán thù, đã khơi lại quá khứ của một cuộc chiến xâm lăng đầy máu và nước mắt.
Đêm 30-4, pháo bông muôn màu nổ rực trời Sàigòn, Hànội và nhiều tỉnh thị trên khắp ba miền đất nước. Dẵm đạp lên nỗi đau của hàng triệu con dân miền Nam, bao gồm cả triệu đồng bào đã phải bỏ nước ra đi tán lạc khắp bốn phương trời hải ngoại, đảng và nhà nước cộng sản huênh hoang ‘xắn tay áo xô, đốt nhà táng giấy’ hãnh tiến ăn mừng 40 năm cái ngày họ mệnh danh là ngày ‘thống nhất’, ngày hai miền Bắc Nam đã ‘quy về một mối’!
Tạm gác nỗi đau của ‘bên thua’, thử hỏi trên thực tế, người dân miền Bắc, những nạn nhân của ‘kẻ thắng’ đã và đang nghĩ gì về ngày này? Trong một bài thơ sáng tác năm 1975 diễn tả nỗi cảm hoài trước sự sụp đổ của nền Cộng Hòa miền Nam, từ trong bốn bức tường nhà tù cộng sản bắc vĩ tuyến 17, cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện viết:
“Vì ấu trĩ, vì thờ ơ, u tối,
Vì muốn yên thân, vì tiếc máu xương
Cả nước đã quy về một mối
Một mối hận thù, một mối đau thương!
Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường,
Đảng tới là tan nát cả!
Lịch sử sang trang, phũ phàng, tai họa!
Nào đâu chính nghĩa thắng gian tà?
Đau đớn này không chỉ riêng ta
Mà tất cả
Cả những kẻ đã nằm trong mả
Và những bào thai trong bụng mẹ trót sinh ra…”
Với cái nhìn tiên tri, nhà thơ họ Nguyễn đã thấy trước những thảm cảnh mà đồng bào ông ở cả hai miền Nam Bắc sẽ phải gánh chịu sau khi đất nước “quy về một mối”.
Đây là điều phải chờ tới mấy thập niên sau, đặc biệt những năm gần đây, nhiều người mới vượt qua được nỗi sợ thâm căn cố đế để nhận ra và đã can đảm cất lên những tiếng nói chân thực của mình.
Tiếp theo những tiếng la thất thanh của Việt Khang, của Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Hoàng Vy, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Phương Uyên…, vào đúng ngày tưởng niệm 40 năm Tháng Tư Đen, người ta nghe được bằng tai, thấy được bằng mắt những tiếng nói chân thực kèm theo những hình ảnh minh họa do một người trẻ tên Lê Văn Thành thực hiện và gửi ra từ Hànội.
Tất cả đã nói lên những suy tư đơn sơ và chân thực của một công dân ra đời và lớn lên ở phía bắc vĩ tuyến 17 về những gì đã và đang diễn ra trước mắt anh.
Bằng một giọng nói khách quan, người trẻ họ Lê cho hay:
“Đã 40 năm kể từ khi chính thể Việt Nam Cộng Hòa miền nam sụp đổ. Toàn thề đất nước nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của bên thắng cuộc: đảng CSVN. Kể từ đó Sài Gòn không còn là Hòn ngọc viễn đông, vì vùng viễn đông giờ đây đã có vô số các thành phố vượt xa Sài Gòn. Kể từ đó không còn ông thủ tướng Singapore hy vọng là một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn, cũng không còn đội bóng Nhật nào năn nỉ được đá giao hữu với Việt Nam để học hỏi kinh nghiệm.
Những nước trước đây vốn kính nể, nghiêng mình muốn học tập ‘bên thua cuộc’ của chúng ta, giờ đây đã bỏ xa chúng ta rất nhiều. Singapore có GDP đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới, Nhật Bản đã đạt tới nền kinh tế thứ 3 thế giới, nền thể thao hàng đầu Châu Á. Còn Việt Nam thống nhất ‘dưới sự lãnh đạo tài tình’ 40 năm của Đảng và Nhà Nước, chúng ta có gì?”
Đọc hoặc nghe những lời lẽ trên đây, những người sinh sau đẻ muộn chưa có dịp thấy được Sàigon trước tháng 4-75, nhất là chưa có dịp ghé qua Singapore, Seoul, Bangkok thuở ấy cũng như bây giờ -40 năm sau- hẳn sẽ lấy làm lạ.
Nhưng với những ai đã có cái may mắn thấy hoặc sống ở miền Nam 40 năm trước và có dịp đi đây đi đó hẳn sẽ hiểu được hàm ý của Lê Văn Thành, và từ đấy cũng hiểu rằng những dáng vẻ hào nhoáng bề ngoài của Hànội, Sàigon và một số tỉnh thị trên ba miền đất nước hiện nay so với Tân Gia Ba, Đại Hàn, Đài Loan, kể cả Thái Lan ngày nay… không thấm vào đâu.
Nhất là nếu chứng kiến tình trạng lạc hậu của tuyệt đại đa số đồng bào ở nông thôn hoặc các vùng sâu, vùng xa hẳn sẽ không lạ khi nghe câu trả lời sau đây của Lê Văn Thành.
“Chúng ta… xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, nhưng lại thuộc hàng rẻ nhất.
Tỉ lệ tử vong vì ung thư cao nhất thế giới. Tiêu thụ nhiều rượu bia, thuốc lá, mì ăn liền hàng đầu thế giới. Giá rượu bia, thuốc lá thuộc hàng rẻ nhất thế giới. Giá bất động sản, giá làm đường, giá xe hơi, sữa, thuốc tây lại thuộc hàng cao nhất thế giới v..v.. và còn rất nhiều những cái trái khoáy mà chúng ta có được sau 40 năm thống nhất”.
Cảm thấu nỗi đau của người dân miền Nam, bao gồm cả tuyệt đại đa số bị kẹt lại để chia chung thân phận hẩm hiu của đồng bào miền Bắc và hàng triệu bà con đang phải sống lưu vong ở hải ngoại, anh Thành đã đẩy những suy tư của anh tới một trong những cái trái khoáy ấy, là vấn đề tạo điều kiện cho cái gọi là Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc.
Anh nói:
“Bất chấp mọi nỗ lực Hòa Giải Hòa Hợp bằng miệng của ‘bên thắng cuộc’, 40 năm đất nước đã quy về một mối, nhưng lòng người vẫn tan tác bi thương!”
Và người bạn trẻ họ Lê âm thầm tự hỏi: “Tại sao vậy?”
Là người lớn lên trong lòng chế độ cộng sản độc tài miền Bắc, anh cam tâm hòa nhập vào hàng ngũ chế độ ấy để bình tĩnh duyệt lại xem trong suốt bốn thập niên qua “chúng ta”, tức “bên thắng cuộc” đã hành xử như thế nào với “bên thua cuộc?”
Lập lại những ngôn từ thô tục, mọi rợ mang tính miệt thị, xách mé mà Đảng và Nhà Nước lập đi lập lại từng ngày để chỉ danh cơ chế cầm quyền và đồng bào miền Nam với mục tiêu nhồi vào tim óc giới trẻ tâm lý hận thù, bất khoan dung, trong khi vận dụng các cơ quan truyền thông xuyên tạc, bôi đen một chính thế mà anh nhìn nhận là đã:
“tồn tại 20 năm, được nhiều tổ chức quốc tế và mười mấy triệu dân miền Nam công nhận”.
Sau khi trưng dẫn những trò bẩn thỉu nhằm hạ nhục những người lính Việt Nam Cộng Hòa, bôi bẩn hình ảnh những người Mỹ ngay cả khi họ đang đùa chơi hay giúp đỡ những em bé Việt Nam ở bên kia vĩ tuyến, đồng thời tìm cách ngăn chặn những nguồn tin nước ngoài như RFA, BBC, VOA Việt ngữ, anh nêu lên biết bao câu hỏi:
“- Phải chăng bên thắng cuộc đang sợ hãi điều gì?
– Nếu chính nghĩa thuộc về mình thì tại sao cứ phải sợ sệt mãi như vậy?
– Còn bên thua cuộc họ không biết đau đớn hay sao khi bao điều tốt đẹp họ đã làm bây giờ bị phủ nhận hết cả?
– Cứ cho rằng họ có lỗi lầm thì họ có đáng bị sỉ nhục, bị phân biệt suốt gần nửa thế kỷ như vậy hay không?
– Thử hỏi miệng nói Hòa Giải, Hòa Hợp nhưng hành động như vậy, thì Hòa Hợp, Hòa Giải cái nỗi gì?
Đề cập ngày 30 tháng Tư, với bản thân Lê Văn Thành, anh coi ngày này là ngày Quốc Tang!
Giản dị vì nó là ngày kết của cuộc chiến giữa 2 miền Nam Bắc Việt Nam, cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc và cũng là một trong những cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại, với một đất nước tan hoàng và hàng triệu người đã ngã xuống.
Anh ngậm ngùi tự hỏi:
“Ngày tàn của một cuộc chiến tang thương nhường ấy có nên cờ hoa rực rỡ, pháo nổ đì đùng hay không?”
Rồi anh tự trả lời:
“Tôi luôn nghĩ rằng nên nhìn nhận về một cuộc chiến đã qua ở góc độ bi tráng, tang thương, chứ không phải hào hứng, hừng hực. Chúng ta không thể dạy lớp trẻ cảm thấy háo hức với những thứ phải trả giá đắt bằng máu và nước mắt, vì như vậy chỉ tạo ra một thế hệ hiếu chiến, khát máu mà thôi. Phải dạy lớp trẻ cảm thấu với nỗi đau của cha ông mà e ngại chiến tranh. E ngại không phải để hèn nhát, mà để cố gắng hết sức không lặp lại những đau thương ấy một lần nào nữa”.
Trở lại vấn đề luôn được Đảng và Nhà Nước CS nỏ mồm kêu gọi là Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc, sau khi nhắc lại nhận định của Tôn Tử hơn 2000 năm trước:
“Chiếm được thành quách mà không chiếm được lòng người thì cũng kể là kẻ chiến bại”,
một nhận định gói gọn tầm quan trọng của việc đắc nhân tâm đối với kẻ thắng, anh nêu tiếp một câu hỏi rồi cay đắng tự trả lời:
“Vậy chúng ta (tức bên thắng cuộc) đã làm gì với ngày kỉ niệm kết thúc cuộc chiến để thu phục lòng người trong suốt 40 năm qua?
– Ăn mừng,
– Ăn mừng mỗi năm một to hơn. Đem chiến tích thắng cuộc ra để tung hô, tự mãn, khi cái giá phải trả là hàng triệu sinh mạng và một đất nước hoang tàn; Đem bên thua cuộc là người anh em máu thịt ra để hạ nhục, xỉ vả, nhiếc móc, trong khi lúc nào cũng bô bô Hòa Giải, Hòa Hợp. Nói không biết ngượng! Thử hỏi có ai mà hòa giải cho được với một kẻ ‘miệng nam mô bụng một bồ dao găm’ không cơ chứ?”
Sau những suy tư chân thành và sâu sắc trên đây, anh kết luận:
“Tóm lại, trách nhiệm Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc nằm ở bên thắng cuộc.
Với tôi, bên thua cuộc có thể ôm hận, nhưng bên thắng cuộc, nếu thực tâm Hòa Giải, Hòa Hợp, không thể ngủ mãi trong men say chiến thắng. Đừng có suốt ngày than trách vì sao người Việt bên kia chiến tuyến cứ ôm mãi hận thù, mà hãy xem lại mình đã hành xử như thế nào trong suốt 40 năm qua. Hãy để ngày 30 tháng Tư là ngày tưởng nhớ vong linh những người đã khuất, ở cả 2 bên chiến tuyến, là ngày để chiêm nghiệm về những thăng trầm của đất nước.
Lãnh đạo Việt Nam hiện nay có thể học tập rất nhiều từ nước Đức.
Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 thống nhất Đông Đức và Tây Đức. Hơn 25 năm qua đi, gần như không còn sự khác biệt giữa 2 miền, kết quả của một quá trình Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc tuyệt vời. Nước Đức giờ đây vươn lên là nền kinh tế thứ 4 trên thế giới, thứ nhất Âu châu. Còn Việt Nam, 40 năm đã qua, chúng ta đang ở đâu? Những lãnh đạo Việt Nam, hãy tự vấn lương tâm của mình.
Lãnh đạo Việt Nam cũng có thể học tập người Mỹ, khi cuộc nội chiến Mỹ 1861 – 1865 kết thúc, chiến thắng thuộc về miền bắc. Nhưng sau chiến tranh, không có chiến binh nào của bên thua cuộc miền nam phải đi học tập cải tạo! Họ được tôn trọng, tự do về nhà, lao động, cùng nhau xây dựng quê hương. Để chỉ sau đó ít năm, Mỹ vươn lên thành siêu cường số một thế giới, liên tục hơn 100 năm đến tận ngày nay. Họ có nhiều hành động để Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc, nhưng tất cả đứng trên một suy nghĩ nhân bản ‘khi một người Mỹ bị sỉ nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục’. Nếu lãnh đạo VN hiểu được điều đơn giản: khi một người Việt bị nhục, thì dù là miền Nam hay miền Bắc cũng vẫn là một người Việt bị sỉ nhục thì họ đã tốt hơn rất nhiều…..
….. 40 năm là quá đủ để lãnh đạo Việt Nam dám nói dám làm, chứ không phải để nhân dân mãi rỉ tai nhau câu:
‘Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm.’”
Ý nghĩ chót dựng lên trong câu hỏi thầm câm sau đây của người viết:
Nếu nghe được những nhận định trên đây của công dân Lê Văn Thành, không hiểu bộ tứ Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, có còn đôi chút liêm sỉ để biết xấu hổ không nhỉ?
Trần Phong Vũ.
HÒA GIẢI HÒA HỢP DÂN TỘC KIỂU GIẢ CẦY
Lê Văn Thành
Đã 40 năm kể từ khi chính thể VNCH, miền nam VN sụp đổ. Toàn cõi VN nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của bên thắng cuộc, ĐCSVN. Kể từ đó Sài Gòn không còn là Hòn ngọc viễn đông, vì vùng viễn đông giờ đây đã có vô số các thành phố vượt xa Sài Gòn. Kể từ đó không còn ông thủ tướng Singapore nào hy vọng là một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn, không còn đội bóng Nhật nào năn nỉ được đá giao hữu với VN để học hỏi kinh nghiệm. Những nước trước đây vốn kính nể, nghiêng mình muốn học tập bên thua cuộc của chúng ta giờ đây đã bỏ xa chúng ta rất nhiều. Singapore có GDP đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới, NB nền kinh tế thứ 3 TG, nền thể thao hàng đầu Châu Á. Còn VN thống nhất dưới sự lãnh đạo tài tình 40 năm của Đảng & NN, chúng ta có gì?
Chúng ta đứng thứ 2 thế giới về chỉ số hạnh phúc, điều này cứ khiến tôi nghĩ đến những đứa trẻ, chúng luôn vui vẻ vì chúng ngây thơ. Xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, nhưng lại thuộc hàng rẻ nhất. Tỉ lệ tử vong vì ung thư cao nhất thế giới. Tiêu thụ nhiều rượu bia, thuốc lá, mì ăn liền hàng đầu thế giới. Giá rượu bia, thuốc lá thuộc hàng rẻ nhất thế giới. Giá bất động sản, giá làm đường, giá xe hơi, sữa, thuốc tây lại thuộc hàng cao nhất thế giới v..v… và còn rất nhiều những cái trái khoáy mà chúng ta có được sau 40 năm thống nhất.
Một trong những cái trái khoáy ấy là về vấn đề HGHHDT, bất chấp mọi nỗ lực HGHH (bằng miệng) của bên thắng cuộc, 40 năm đất nước đã quy về 1 mối, nhưng lòng người vẫn tan tác bi thương. Tại sao vậy?
Hãy xem cách chúng ta nói về bên thua cuộc. Về giáo dục, môn lịch sử của bên thắng cuộc luôn dạy thế hệ trẻ rằng VNCH là phường mọi rợ, ác ôn, sát hại đồng bào..bla..bla.. Về truyền thông, báo chí liên tục sử dụng ngụy quân, ngụy quyền, tay sai để chỉ chính quyền & quân đội VNCH, những từ ngữ rất miệt thị & xúc phạm. Một chính thể tồn tại 20 năm, được nhiều tổ chức quốc tế và 10 mấy triệu nhân dân miền nam công nhận sao có thể là ngụy quân, ngụy quyền? Nguyên tắc cơ bản của HGHH là phải tôn trọng lẫn nhau, mình cũng không làm được. Báo chí thì chỉ đưa tin tức 1 chiều. Những hình ảnh lính Mỹ, lính VNCH kiểm soát, bắt bớ, đàn áp nhân dân (ở đây tôi còn chưa muốn nói tới nguyên nhân dẫn đến những hành động đó) còn những hình ảnh miền nam yên bình, giàu đẹp, kinh tế năng động, lính Mỹ chơi đùa với trẻ nhỏ, giúp đỡ người già, tiêm chủng, khám bệnh cho nhân dân…thì không bao giờ được xuất hiện. Các kênh nước ngoài như RFA, BBC, VOA Việt ngữ đều bị chặn hết. Truyền thông thì phải khách quan chứ? Thời chiến thì cho rằng đưa những thông tin đó ra có thể làm lung lạc ý chí quân & dân, nhưng thời bình thì tại sao phải dấu? Phải chăng bên thắng cuộc đang sợ điều gì? Chính nghĩa thuộc về mình mà sao cứ phải sợ sệt mãi như vậy? Còn bên thua cuộc họ không biết đau đớn hay sao, khi bao điều tốt đẹp họ đã làm bây giờ bị phủ nhận hết cả? Cứ cho rằng họ có lỗi lầm thì họ có đáng bị sỉ nhục, bị phân biệt suốt gần nửa thế kỷ như vậy hay không? Thử hỏi miệng nói HGHH nhưng hành động như vậy, thì HGHH cái nỗi gì?
Rồi lại bản sơ yếu lí lịch, đi xin việc ở đâu cũng phải khai theo tôn giáo nào, Có phải Đoàn viên, Đảng viên hay không? Bố mẹ trước năm 1975 làm gì, ở đâu, sau 1975 làm gì ở đâu? Cái đó thì liên quan gì đến năng lực làm việc của 1 người? Ngành nào đặc thù thì ngành đó yêu cầu thôi chứ? Như vậy chẳng phải để phân biệt đối xử hay sao? HGHH giả cầy thì có.
Bây giờ tôi mới xin nói về ngày 30/4. Nên xem 30/4 là ngày Quốc hỉ hay Quốc hận? Bản thân tôi coi 30/4 là ngày quốc tang, bởi 2 lý do:
1. Với mọi tranh chấp, phải sử dụng đến chiến tranh luôn là phương án cuối cùng bất đắc dĩ vì xác định chiến tranh nghĩa là sẽ phải hi sinh, mất mát. 30/4/1975 là ngày kết của cuộc chiến giữa 2 miền nam bắc VN, cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc & là 1 trong những cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại, hàng triệu người đã ngã xuống cả 2 bên chiến tuyến. Ngày tàn của 1 cuộc chiến tang thương nhường vậy có nên cờ hoa rực rỡ, pháo nổ đì đùng hay không? Tôi luôn nghĩ rằng nên nhìn nhận về 1 cuộc chiến đã qua ở góc độ bi tráng, tang thương, chứ không phải hào hứng, hừng hực. Chúng ta không thể dạy lớp trẻ cảm thấy háo hức với những thứ phải trả giá đắt bằng máu & nước mắt, như vậy chỉ tạo ra 1 thế hệ hiếu chiến, khát máu mà thôi. Phải dạy lớp trẻ cảm thấu với nỗi đau của cha ông mà e ngại chiến tranh, e ngại không phải để hèn nhát, mà để cố gắng hết sức không lặp lại những đau thương ấy 1 lần nào nữa. Đó là lý do thứ nhất tôi nghĩ nên coi 30/4 là quốc tang.
2. Lý do thứ 2 liên quan đến vấn đề HGHHDT. Vào thời Xuân Thu, cách đây hơn 2000 năm, nhà binh pháp kiệt xuất Tôn Tử đã nhận định: “Chiếm được thành quách mà không chiếm được lòng người thì cũng kể là thất trận”. Một nhận định ngắn ngủi cũng đủ để ta thấy được tầm quan trọng của việc đắc nhân tâm đối với bên thắng cuộc. Vậy chúng ta đã làm gì với ngày kỉ niệm kết thúc cuộc chiến để thu phục lòng người trong suốt 40 năm qua? Ăn mừng, ăn mừng mỗi năm một to hơn, đem chiến tích thắng ra để tung hô, tự mãn, khi cái giá phải trả là hàng triệu sinh mạng & 1 đất nước hoang tàn, đem bên thua cuộc là người anh em máu thịt ra để hạ nhục, xỉ vả, nhiếc móc, trong khi lúc nào cũng bô bô HGHH, nói không biết ngượng, có ai mà hòa giải cho được với 1 kẻ ‘miệng nam mô bụng 1 bồ dao găm’ không cơ chứ?
Tóm lại, trách nhiệm HGHHDT nằm ở bên thắng cuộc. Với tôi, bên thua cuộc có thể ôm hận, nhưng bên thắng cuộc, nếu thực tâm HGHH, không thể ngủ mãi trong men say chiến thắng. Đừng có suốt ngày than trách vì sao người Việt bên kia chiến tuyến cứ ôm mãi hận thù, mà hãy xem lại mình đã hành xử như thế nào trong suốt 40 năm qua. Hãy để 30/4 là ngày tưởng nhớ vong linh của những người đã khuất, ở cả 2 bên chiến tuyến, là ngày để chiêm nghiệm về những thăng trầm của đất nước.
Lãnh đạo VN hiện nay có thể học tập rất nhiều từ nước Đức. Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 thống nhất Đông Đức & Tây Đức. Hơn 25 năm qua đi, gần như không còn sự khác biệt giữa 2 miền, kết quả của 1 quá trình HGHHDT tuyệt vời. Nước Đức giờ đây vươn lên là nền kinh tế thứ tư trên thế giới, thứ nhất Âu châu. Còn VN, 40 năm đã qua, chúng ta đang ở đâu? Những lãnh đạo VN, hãy tự vấn lương tâm của mình.
Lãnh đạo VN có thể học tập người Mỹ, khi cuộc nội chiến Mỹ (1861 – 1865) kết thúc, chiến thắng thuộc về miền bắc. Nhưng sau chiến tranh, không có chiến binh nào của bên thua cuộc miền nam phải đi ‘học tập cải tạo’, họ được tôn trọng, tự do về nhà, lao động, cùng nhau xây dựng quê hương. Để chỉ sau đó ít năm, Mỹ vươn lên thành siêu cường số 1 thế giới, liên tục hơn 100 năm đến tận ngày nay. Họ có nhiều hành động để HGHHDT nhưng tất cả đứng trên 1 suy nghĩ nhân bản “khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục”. Nếu lãnh đạo VN hiểu được điều đơn giản: khi một người Việt bị nhục, thì dù là miền Nam hay miền Bắc cũng vẫn là một người Việt bị sỉ nhục thì họ đã HGHHDT tốt hơn rất nhiều.
Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói:
“Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn”. Đúng vậy, nên chỉ cần hàng triệu người bớt vui đi 1 chút thì sẽ có hàng triệu người bớt buồn đi rất nhiều.
40 năm là quá đủ để thực hiện HGHHDT thực sự.
40 năm là quá đủ để lãnh đạo VN dám nói dám làm, chứ không phải để nhân dân mãi rỉ tai nhau câu:
Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm.
40 năm là quá đủ.