Trần Xuân Thời
Từ cổ chí kim, nhân thế đi tìm chân lý cơ hồ như không bao giờ biết mệt mỏi. Chủ đích là để tìm giải đáp cho các vấn nạn về đấng tạo hóa, vũ trụ, đời người và người ở đời, tiền sinh, hậu kiếp.
Nhiều triết gia đã ví con người đi tìm chân lý như những con thiêu thân bay chung quanh ánh sáng của ngọn đèn. Ngọn đèn tượng trưng cho Ánh sáng, Chân lý, Linh quang, Điển quang hay đấng Tối cao. Phải chăng chung quy chỉ có một Chân lý tối hậu hay một Hóa Công, tất cả đều đồng quy về một điểm…
Nhìn chung từ Âu sang Á, triết lý nhân sinh được dựa trên hai tín niệm hệ chính là Hữu thần (Theism) và Vô thần (Atheism).
Nói một cách tổng quát, hữu thần tin tưởng vũ trụ và nhân loại do một vị Thần tác tạo nên được nhân loại gọi qua nhiều danh xưng như thần Zeus, Dieu, God hay Thượng đế, Hóa công… Con người có linh hồn bất diệt. Vô thần không tin vào sự hiện hữu của thần linh, con người không có linh hồn, tự nhiên sinh ra và chết là hết. Ngoài hai môn phái nầy, môn phái thứ ba là môn phái bất khả tri luận (Agnosticism) chủ trương trí tuệ con người hữu hạn không thể xác nhận hay phủ nhận về sự hiện hữu của thần linh.
1-Triết học Tây Phương
Từ thế kỷ thứ sáu (VI) trước Công nguyên, các triết gia Hy Lạp đã nghiên cứu về vũ trụ. Họ hiểu một cách khái quát là vũ trụ do thần linh tạo nên. Quan niệm nầy đã được thể hiện qua tác phẩm Thần Minh Luận (Theogonie) của thi hào Hesiode. Theo Thần Minh Luận thi vũ trụ khôi nguyên là một khối hổn mang, thuộc phần vụ của thần Chaos, thần hổn mang chi sơ. Vũ trụ là một vực thẵm trống rổng mà có lẻ thiên văn học ngày nay gọi là „Black hole“. Trong đó có thần Eros (Cha Trời) sinh sản ra muôn vật, muôn loài trong vũ trụ, thần Gaia (Mẹ Đất ), nuôi nấng vạn vật, và Thượng đế hay Zeus cai quản và ngự trị toàn vũ trụ.
Nói đến thần linh chỉ có lòng tin mà không thể chứng minh được bằng kiểm chứng khoa học. Vì khoa học là khoa nghiên cứu về vật chất hữu hình, không thấy được linh hồn trong khi giải phẩu óc, cũng không thấy được tình yêu khi mỗ tim, nhưng tình yêu là một thực thể không thể phủ nhận được.
Một số triết gia Hy Lạp nghiên cứu về con người, sự kết cấu của vũ trụ và những hành chất cơ bản của thiên nhiên .
Nhà toán học kiêm triết gia Thales (624-546) cho rằng nguyên chất cơ bản cho sự biến thái của vạn vật là nước. Trong tất cả những mầm sống đều có nước. Thales còn là một thiên tài về thiên văn học, ông đã tiên đoán được một cách chính xác hiện tượng nhật thực xảy ra năm 585 trước Công nguyên theo chu kỳ âm lịch.
Triết gia Anaximene (585-528) cho rằng nguyên chất cơ bản, đơn nhất và vô hạn định là khí (pneuma). Khí nâng đở con người và sinh vật. Anaximene đã bàn về định luật tất định, nghĩa là vạn vật sẽ trở về nguyên lý từ chổ chúng đã sinh ra, “tro bụi sẽ trở về tro bụi”.
Nhà toán học Pythagore (570-496) đã bàn đến sự tu luyện khổ hạnh để đạt đến tình trạng xuất thần. Con người chỉ có thể hiểu được bản tính của linh hồn qua trạng thái xuất thần, hồn lìa khỏi xác. Trong nghi lễ tế tự, người hành lễ dùng rượu say sưa để dễ xuất thần và hòa đồng với thần linh. Quan niệm về hồn và xác thể hiện tính cách nhị nguyên: Thân xác là phần khả tử, có sinh thì có diệt. Linh hồn là phần bất tử, nhập vào thể xác, “ hồn nhập thể” sống tạm bợ trong xác. Nếu sống công chính, thánh thiện, linh hồn sẽ được giải thoát sau khi chết. Nếu không, linh hồn sẽ nhập vào một sinh vật khác, quan niệm nầy tương tự quan niệm về luân hồi của Ấn độ giáo (Hinduism).
Triết gia Heraclite (544-484) cho rằng nguyên chất cơ bản của vũ trụ là lửa. Vũ trụ là một khối lửa linh động. Mọi sự vật đều biến dịch, trôi chảy như một dòng sông. “Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”, cũng như tôi không có thể gặp lại tâm hồn tôi chiều nay. Mọi sự đều biến chuyển từng giờ, từng khắc hay vô thường.
Triết gia Empedocle (492-432), vũ trụ được cấu tạo bằng 4 nguyên chất: Lửa, Nước, Khí và Đất. Quan niệm nấy gần với quan niệm của Kinh Dịch về ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa và Thổ. Khi các nguyên chất này hòa hợp thì có sự sống và khi các nguyên chất nầy tách rời tạo nên sự hủy diệt. Cảnh vật, nhân sinh biến đổi qua chu kỳ kết hợp nầy, giống như tình yêu, liên kết, tạo ra sự sống và phân tán, thù hận, tan rã đem đến sự hủy diệt.
Triết gia Leucippe và Democrite đã phát kiến ra một ý niệm mới: Ý niệm về nguyên tử. Nguyên tử là đơn vị bất khả phân của các nguyên chất cơ bản, là đơn vị nhỏ nhất về vật lý không thể phân hóa thêm nữa. Leucippe và Democrite dùng vật lý để giải thích linh hồn. Linh hồn được cấu tạo bằng những nguyên tử tròn trĩnh của lửa, di động trong toàn thân nhờ sự hô hấp, nhờ đó sự sống mới tồn tại được.
Democrite cũng đưa ra ý niệm khoái lạc và đau khổ. Làm việc thiện mang lại sự thỏa mãn, sung sướng, khoái lạc. Làm việc độc ác mang lại sự đau khổ, tâm động và phiền não.
Quan niệm nầy hữu lý vì giữa những người Việt Quốc Gia không nên gây thù oán với nhau. Vì thù hận và trả thù chỉ được thỏa mãn trong chốc lát và tạo nên sự đau khổ triền miên, tha thứ sẽ được thỏa mãn lâu dài.
Từ bi, hỷ xã, vị tha, bác ái, sẽ khiến cho hồn lành trong xác mạnh do ảnh hưởng tâm sinh lý. Con người phải tìm sự sung sướng vĩnh cữu, trường tồn, xa lìa những khoái lạc tạm bợ, dễ tan biến hay dễ hư nát của trần gian.
Sung sướng trong sự chí thiện, hoàn hảo sẽ mang lại tinh thần minh mẫn, hay minh triết. Chỉ có minh triết mới giúp con người phân biệt được thiện, ác. Chỉ có minh triết mới giúp con người vươn lên đến sự thỏa mãn hoàn hảo nhất. “Be perfect as your Father in heaven is perfect”. Hãy trở nên toàn thiện vì Tạo hóa tạo nên vũ trụ và nhân loại là đấng toàn thiện.
Triết gia Protagoras (480-410) cho rằng con người là thước đo của vạn vật. Nghĩa là sự vật thể hiện trước mắt của chúng ta như hình hài, màu sắc, nóng lạnh nhờ giác quan của chúng ta thu nhận hay tri giác được (perception). Mỗi người tri giác và trí tuệ gạn lọc, cảm nhận sự vật một cách khác nhau nên sắc thái và ý nghĩa sự vật sẽ khác nhau.
Nói khác đi tùy theo cặp kính ta đeo mà mọi vật bên ngoài đều thay đổi. Protagoras còn cho rằng con người là một hiện hữu biệt lập, không lệ thuộc thần linh. Một là không biết thần linh có hay không, hai là chuyện thần linh quá khó khăn mà cuộc đời thì ngắn ngủi, do đó nên chú tâm vào những gì thuộc con người mà thôi. Có lẽ khi tu luyện đạt đến trình độ minh triết như quan niệm của Democrite thì đương nhiên con người vươn lên và thông hiệp với thần thánh, giai đoạn „nhi tri thiên mệnh“. Nếu không mong mỏi được thấy Thần linh thì sẽ không bao giờ thấy được Thần linh.
2- Triết học Đông phương
Song hành với triết học Hy Lạp, nền văn minh Ấn độ đã lưu lại cho nhân thế một nền triết lý rất phong phú, đầy tính chất thần linh trong nổ lực đi tìm chân lý của cuộc đời. Kho tàng triết lý Ấn độ được lưu lại qua các bộ kinh sách như kinh Vệ đà, kinh Upanishad, kinh Bhagavadgita… các bộ kinh nầy có thể được viết từ năm 2000 đến năm 800 trước Công nguyên.
Các kinh sách nầy đề cập đến sự tương liên giữa người (Atman: tiểu ngã, linh hồn) vào Tạo hóa (Brahman: đại ngã,vũ trụ, đấng tạo hóa) và quan niệm về luân hồi, nghiệp chướng. Linh hồn bất diệt, hết kiếp nầy lại tái sinh (reincarnate) vào kiếp khác. Cuộc đời cứ tử sinh, sinh tử cho đến khi thoát được vòng nghiệp chướng (karma). Muốn thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp chướng, con người phải biết tu tâm dưỡng tánh, sống đạo hạnh để thoát khỏi vòng luân hồi (mosha).
Thiền môn Jainism chủ trương không màng đến đời sống vật chất, đi chân không, uống nước lã, không mặc áo quần vì áo quần chỉ làm vướng bận thân xác… sống xa chốn phồn hoa đô hội đến chốn thâm sơn cùng cốc để tu luyện.
Môn phái Duy Vật: Môn phái nầy lý luận rằng nếu đời là bể khổ, thì phương pháp diệt khổ không phải là tu trì mà tìm sự say sưa, khoái lạc để tiêu trừ sự đau khổ. Môn phái nầy chỉ tin vào thế giới hữu hình, phủ nhận thế giới vô hình, chết là hết. Chủ trương nầy tương đồng với quan niệm của Epicure (Hy Lạp). Epicure là triết gia đầu tiên nêu lên vấn đề phủ nhận linh hồn bất diệt. Ông chủ trương con người không có linh hồn, chỉ là thể xác, chết là hết. Môn phái nầy có lẻ là tiền thân của chủ nghĩa vô thần (Atheism).
Môn phái Phật học do Đức Phật Thích Ca sáng lập với chân lý Tứ Diệu Đề và Bát giới. Ngài là Thái Tử Gautama Siddharta (563-483 BC) của tiểu quốc Ca Tì La Vệ, sinh ra đã có 32 tướng tốt, nếu xuất gia tu hành thì sẽ thành Phật. Ngài thấy thế nhân đau khổ, bỏ gia đình, đế nghiệp vào rừng tu luyện cho đến khi đắc đạo… Theo Ngài, sở dĩ thế nhân đau khổ là vì tham sân si, thất tình lục dục… tất cả đều do vô minh. Muốn diệt khổ, thế nhân phải diệt dục. Phương pháp của Ngài là phương pháp tích cực tu luyện, không tiêu cực lệ thuộc vào sự phù trì của thần linh mà phải tự lực cứu khổ theo giới luật mà Ngài đã truyền dạy mới mong thoát được vòng luân hồi, nghiệp chướng sau khi lâm chung.
Thời cực thịnh của Phật giáo ở Ấn độ là thời vua Ashoka (274-236). Đến thế kỷ thứ II, nhân kỳ Đại hội thứ 4 của Phật giáo, Phật giáo chia làm hai môn phái. Phái Tiểu Thừa (Hynayana) theo phương thức hành đạo nguyên thủy của Đức Phật, truyền qua Tích Lan, Miến điện, Thái Lan… Môn phái Đại Thừa (Mahayana) truyền qua Trung Hoa, Việt Nam, Nhật bản, Đại hàn…
Tại vùng Trung Đông, Hồi giáo được bành trướng mạnh mẽ từ thời Giáo chủ Mohammed (570-632 AD) sau Công nguyên.
Islam hay Hồi giáo có nghĩa là „Phụng thờ Đấng Tạo Hóa“. Coran là kinh thánh của Hồi giáo thể hiện triết lý hành đạo và nguyên tắc xử thế, giải quyết thế sự. Hồi giáo thờ Chúa duy nhất là Allah. Ngài là đấng toàn năng tạo dựng nên vũ trụ và nhân thế.
Thể thức hành đạo dựa trên 5 quy điều chính:
(1) Chỉ thờ một Thiên Chúa duy nhất. (2) Cầu nguyện để ca tụng Thiên Chúa: Sáng, trưa, chiều, tối và trước khi đi ngủ, (3) Ăn chay hãm mình trọn một tháng trong một năm (4) Làm phước lành, bố thí cho kẻ nghèo khó, già cả bệnh hoạn theo tỷ suất lợi tức hằng năm, (5) Hành hương thánh địa Mekka ít nhất một lần trong suốt cuộc đời.
Số tín đồ khoảng 800 triệu, đứng hạng nhì sau Thiên Chúa Giáo. Hồi giáo cũng chia làm nhiều môn phái, là tôn giáo mạnh nhất ở Trung đông.
Tại Trung hoa, Nho học và Lão học cũng đã phát triển đồng thời với các môn phái triết học Hy lạp, Ấn độ.
Đức Khổng Tử (551-479 BC) đã từng chu du liệt quốc để quảng bá triết thuyết của ngài dựa trên ngũ luân, ngũ thường… nhằm cải tiến luân lý cá nhân để xây dựng cộng đồng xã hội…
Muốn làm người xứng đáng, kẻ trượng phu phải biết hành hiệp
„Thượng vi đức, hạ vi dân, sắp hai chữ quân thần mà ghánh vác (Ng. c. Trứ) theo cương thường đạo nghĩa, từ sự tìm tòi học hỏi, cách vật chí tri, đến tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ…
Chữ Tu, theo nguyên nghĩa gồm chữ Nhân là người và chữ Văn là vẻ đẹp. Chữ nhân viết thẳng đứng với ý nghĩa vươn lên đến sự hoàn mỹ (perfection). Tu là giai đoạn căn bản và cần nhiều cố gắng của bản thân, tự rèn luyện học tập để phát triển kiến thức và tâm đạo.
„Đại học chi đạo, tại minh minh đức…“ Người có kiến văn, trí dục, cần có đức dục để tạo nên con người tài đức song toàn. „Trong thiên hạ có ba cái đại họa: Một là không có tài mà giữ chức vụ cao, hai là không có công mà được thưởng, ba là không có tội mà bị phạt“. Dân tộc nào lâm vào ba đại họa nầy, dân tộc sẽ đói khổ, suy vong như tình trang VN ngày nay! Sống ở đời phải có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, luôn luôn giữ hành vi chính trực. „Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi „, một ngày mà không nghĩ đến điều thiện thì mọi điều ác sẽ dấy lên.
Triết học Trung hoa quan niệm Trời chỉ giúp người biết tự lực tự cường. „Thiên hành kiện dĩ tự cường bất tức. Cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí“ (Kinh dịch). Quan niệm nầy tương quan với quan niệm của tây phuơng „Aide toi, le ciel t’aidera“ hay „God helps those who help themselves”. Chung quy nhân loại vân nổ lực không ngừng, tự thánh hóa bản thân mình bằng nhiều phương cách khác nhau.
3- Sự tương đồng trong ý niệm tu hành
Những phương cách tu thân thánh thiện đều đồng quy vào một điểm là đi tìm chân lý, nhắm đến cứu cánh giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi để đạt đến đời sống vĩnh cửu. Trừ những kẻ lạc đạo, vô thần, đa số các tôn giáo đều có những điển mô tương đồng: Chân lý con người đi tìm là chân lý giúp con người được đắc đạo „The true light that enlightens everyone“ (Veritatis Splendor). Các bậc thánh nhân trong nhiều hoàn cảnh đã bỏ giàu sang phú quý, thân bằng quyến thuộc, cuộc đời thế tục, đến chốn cùng cốc thâm sơn, vô vi tịch mịch để tu luyện mong tìm phương cách cứu rỗi hoặc hy sinh cuộc đời để đi tìm chân lý. Thánh Kinh cũng xác nhận „Everyone who has left houses or brothers, or sisters or father or mother or children or lands for my name’s sake, will receive a hundredfold and inherit internal life“ (Mt 19:29). Những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái, đất đai, để đi tìm chân lý đều được phúc đời đời.
Đức Khổng Tử giữ phương vị của một thánh nhân phù thế giáo một vài câu thanh nghị, dù nhân thế tranh bá đồ vương, loạn lạc.
Ngài vẫn luôn luôn xử thế thuận theo thiên mệnh „Thuận thiên giả tồn“
„One who despise man’s sin remains the model for moral action in accordance with Lord’s commands“.
Đức Lão Tử sống với thiên nhiên, để tu tâm dưỡng tánh, tìm chân lý cho cuộc đời. Thông Điệp Humanae Vitae cũng đã viết
„The natural moral law express and lays down the purposes, rights and duties which are based upon the bodily and spiritual nature of the human person. Therefore, the law can not be thought of as simply as sets of norms on the biological level. Rather it must be defined as the rational order whereby man is called by the Creator to direct and regulate his life and his actions and in particular to make use of his own body“. (Veritatis Splendor). Sống theo luật thiên nhiên tức là sống theo tiếng gọi và sự điều hướng của Thượng Đế.
Các bậc thánh nhân đã đóng góp vào hành trình cải tiến cuộc đời trần thế, tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời và giúp nhân thế hướng dẫn đến đời sống vĩnh cửu mai hậu. Như vậy các tôn giáo đều dạy phải làm việc lành phước đức để đầu tư vào đời sau. „Được lời lãi cả thê‘ gian mà mất linh hồn cũng chẵng được ích gì“. Những người lương thiện, những bậc tu trì đắc đạo trong bất cứ tôn giáo nào, suốt đời sống theo lương tâm chính trực, bằng cách này hay các khác đều có thể được hưởng phước đời đời…
Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II, vào đầu tháng 11 năm 1999, trong cuộc viếng thăm Ấn Độ, đã công bố Tông Thư:
Giáo Hội tại Á Châu: “Giáo hội Công giáo tỏ lòng cung kính và ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu của các tôn giáo.
Những giá trị tôn giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô”.
“Asia is also the cradle of the world’s major religions—Judaism, Christianity, Islam and Hinduism. It is the birthplace of many other spiritual traditions such as Buddhism, Taoism, Confucianism, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism and Shintoism. Millions also espouse traditional or tribal religions, with varying degrees of structured ritual and formal religious teaching. The Church has the deepest respect for these traditions and seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The religious values they teach await their fulfilment in Jesus Christ.”
Tông Thư Veritatis Splendor và Tông thư Ecclesia in Asia giúp chúng ta am hiểu thêm công việc của Chúa Thánh Linh qua các phương cách cứu rỗi tiềm ẩn trong chủ trương tổng quát
“Ngoài Giáo hội Công giáo, không có sự cứu rỗi- Extra Ecclesiam, nulla salus” và “ No one can enter the Kingdom of God unless he is first born of water and Spirit. (Jn 3:5).
Từ thuở tạo thiên lâp địa, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, con người đã tin vào một Đấng Tạo Hóa (Creator) toàn năng, là đệ nhất nguyên nhân/ tác nhân, (First Cause/Agent) tạo nên muôn loài và vũ trụ. (St. Thomas Aquinas (1225-1274) Tổng Luận về Thần học- Summa Theologica). Đấng Tạo hoá hay Thượng Đế nội tại (immanent) ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên trên bình diện tự nhiên, Thiên Chúa đã đương nhiên hiện hữu trong tâm trí họ rồi.
Vì thế, giáo hữu trong giáo hội không những phải chỉ yêu chuộng những người đồng tín ngưởng mà cả những người ngoại giáo có lòng thành. Quan niệm nầy được Công đồng Vatican II xác nhận qua Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes. 4):
“The Church’s Pastors… speaking with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn Cứu Độ của Chúa được ban cho mọi người. “Salvation is open to all”.
Để xác minh ý niệm cứu rỗi một cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai, không vì lỗi của họ, không biết gì về Thiên Chúa và Giáo hội, nhưng cố công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính trực, có thể được sự sống đời đời ….
Vì lòng thành và chân lý tìm thấy trong những người nầy chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô.
“Those who without any fault do not know anything about Christ or His Church, yet who search for God with sincere hearts and under the influence of grace, try to put into effect the will of God as known to them through the dictate of conscience…can obtain eternal salvation…Nor does divine Providence deny the help that are necessary for salvation to those who, through no fault of their own, have not yet attained to the express recognition of God, yet who strive, not without divine grace to lead an upright life. For whatever goodness and truth is found in them is considered by the Church as preparation for the Gospel and bestowed by him who enlightens everyone that may be in the end has life” (Hiến chế Lumen Gentium 16).
4- Tuân giữ các giới răn
Các tôn giáo đều có các giới răn, giới luật. Tuân giữ các giới răn tức là tuân luật, luật này hưóng dẫn đến chân lý. Người ta thường nói: „Sống không có kỷ luật, thì chết sẽ không được vinh quang“. Thiên đàng, Niết bàn, Cõi phúc đều có giá cả.
Sống buông thả, tự do, tư tại „Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp. Trong thú yên hà cuộc tỉnh say“, nếu không chịu niệm kinh hôm sớm, giữ cho lục căn thanh tịnh, xa lánh tội lỗi thì khó hưởng được phước đời đời…
„Do this, you will live: If you wish to enter eternal life, keep the commandments“.
Dĩ nhiên không ai bắt buộc mình phải tuân giữ giới luật, mà muốn được hưởng phước đời thì phải làm lành lánh dữ trong lời nói cũng như hành động. Nói khác đi, khi tuân giữ các giới luật, con người tuân giữ một cách tự nguyện. Thiên Chúa khuyên nhân thế hãy theo ta vì Ta là đường, là chân lý, là sự sống. Theo Ta các con sẽ biết được chân lý và chân lý sẽ giải thoát các con.
„Come, follow me, you will know the truth, and the truth will make you free“.
Nhờ đó, chúng ta có cơ may thoát khỏi tục lụy, xích xiềng của thế trần.
Có tự do hành động, con người mới chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Có tự do hành đạo, con người mới có công đức. Tín ngưởng nào cũng phải biết tôn trọng quyền cá nhân tự quyết. Sự ép buộc tuân luật lệ chỉ áp dụng cho thuở thiếu thời vì khi đó lý trí chưa ý thức được những gì nên nói và những việc không nên làm.
Tuân giữ các giới luật là nguồn gốc của sự khôn ngoan „Fear of law, which is the beginning of wisdom” (Prv:17).
Thiện và ác là một ý niệm tương đối vì „Bên này núi Pyrenees là chân lý thì bên kia là sai lạc”. Nhưng thế thượng thường tình, có những điều ác „in se“, có nghĩa là tự nó đã là ác mà nhân thế đều công nhận như tội giết người không xã hội nào dung tha. Sự phân biệt thiện ác chẵng những do luật lệ của mỗi quốc gia, giới luật của mỗi tôn giáo mà lương tâm con người cũng vừa là nhân chứng (witness) vừa là quan tòa (judge) phán xét hành vi của mỗi người.
Lương tâm (conscience) tuy vô hình, nhưng âm thầm, tiềm ẩn, điều hướng hành vi của con người. Con người có thể che mắt luật pháp, che mắt thiên hạ về hành vi bất chính của mình nhưng không thể che mắt lương tâm. Vì thế, người đời thường không làm việc trái lương tâm, phần vì sợ bị lương tâm cắn rứt, phần vì sợ hậu quả không được vào cõi phúc đời sau. Lương tâm là quan toà của Thiên luật (natural/divine law).“Cọp giết người cọp yên ngủ. Người giết người thức đủ năm canh“.
Trong tận đáy lòng của mỗi người có một loại luật, luật nầy không ràng buộc như luật đời (man made law), nhưng mời gọi con người làm lành, lánh dữ. „In the depth of his conscience, man detects a law which does not impose on himself, but which hold him to obedience. Always summon him to love good and avoid evil, the voice of conscience can when necessary speak to his heart more specifically: Do this and sun that“ (Rom. 2: 14-16). Đúng vậy, tiếng lương tâm, khi cần sẽ khuyên con người làm điều lành và lánh điều ác.
Lương tâm có trách nhiệm nên cũng có quyền hạn, đó quyền chế tài khiến cho những người phạm tội thường bị lương tâm cắn rứt…và thú tội trước Linh Mục hay cơ quan công lực. Những kẻ theo chủ thuyết vô thần (atheist) thường có những hành vi vô nhân, thất đức vì họ đã bán linh hồn cho quỷ Satan.
Một điều quan trọng là khi tâm trí vô minh (invincible ignorance) lương tâm dễ bị lầm lẫn. Vô minh có thể là trạng thái tâm trí bị hà tì, rối loạn thần kinh (psychopath) không đủ lý trí sáng suốt để phân biệt được phải trái hoặc không có ý chí (will) vững mạnh để chon sự lành, lánh sự dữ khiến cho lương tâm bị lầm lẫn (erroneous conscience) có khi làm sai làm sai mà tưởng là đúng !
Tôn giáo hướng thượng hành vi con người thì Cộng sản lại cho là thuốc phiện ( the opiate of the people) . Cộng sản vi phạm tự do tôn giáo, xóa bỏ luân lý cổ truyền, chiếm đoạt tài sản của các giáo hội, bách hại thiện nam, tín nữ …vì họ được tẩy não, theo duy vật biện chứng, chỉ tin vào những gì hữu hình và không tin con người có linh hồn hay kiếp sau.
Cán bộ cộng sản luôn luôn tâm động, trí quẩn, không thấy được ánh sáng chân lý.
Cộng sản chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện “ La fin justifie les moyens”, là chủ trương trái luân thường đạo lý.
Giết địa chủ để cải cách điền địa là bằng chứng của lương tâm lầm lẫn vì làm chuyện xấu không thể có kết quả tốt. „It is not licit to do evil that good may come of it“. Luật pháp liệt loại hành động phi nhân như sát nhân là loại “malum in se”. Tự bản chất các hành vi nầy đã là hành vi vô luân „Whatever is hostile to life itself, such as any kind of homocide, genocide, euthanasia, and voluntary suicide …all these and the like are a disgrace“ (Gaudium et Spes).
Những ai không chấp nhận tôn giáo, thường sống trong tình trạng ấu trỉ, chưa trưởng thành như Collidge đã nhận xét „Only when men begin to worship, they begin to grow“. Những người tôn thờ chủ nghĩa vô thần là những người chưa trưởng thành về trí tuệ, mê muội, chưa liễu ngộ, chưa được mặc khải, chưa được đốn ngộ, sống trong thế giới vô minh, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác.
Vì thế chính quyền các chế độ vô thần rất sợ nhân dân được tự do, vì luật hoàn mỹ nhất là luật tự do hành động
„The perfect law is the law of liberty“.
Những người chủ trương vô thần càng ngày càng lãnh hội được ngoài thế giới hữu hình còn có thế giói vô hình và trở lại hữu thần. Sự bành trướng của các tôn giáo trong các xã hội vô thần là một chứng minh cụ thể cho nhận định nầy. Ngay trong các xã hội độc tài cộng sản, khuynh hướng vô thần không khống chế nỗi khuynh hướng hữu thần, nên đảng CS phải dùng những phương pháp đàn áp, ngăn cản sự tự do hành đạo của các tôn giáo, hay tạo nên các tổ chức ma giáo “quốc doanh” để phục vụ chủ trương vô thần “ Ma đưa lối, qủy đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”!
Sở dĩ các chính quyền vô thần hay dùng bạo lực là vì các chính quyền vô thần không có khả năng thuyết phục, và chủ nghĩa cộng sản mất năng lực thu hút kể cả với giới vô sản. Cộng đồng quốc tế vô thần càng ngày càng thu hẹp và đang đi đến chổ triệt tiêu … Con người khi chưa ý thức đuợc thế giới linh thiêng, chưa biết thờ phụng đấng Chí tôn thì trí tuệ sẽ vô minh và chưa được trưởng thành.
Họ không phân biệt được phải trái, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác… cho đến lúc sụp đổ toàn diện như Liên bang Sô Viết… mới biết tập tểnh xây dựng lại tương lai với sự trợ lực về cả tinh thần lẩn vật chất của thế giới hữu thần trong tinh thần vị tha, bác ái.
Người nhân ái thường chủ trương “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”.
“Lấy lời lành mà khuyên người, mở miệng dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội”.
5- Yêu mến tha nhân
Tôn giáo dạy con người yêu mến đồng loại. Chính sách chiêu hồi những kẻ lầm đường lạc lốỉ cũng bắt nguồn từ ý niệm nhân đạo. Ngược lại Cộng sản tàn bạo, sau khi xâm lược miền Nam đã đày ải, giam cầm hằng trăm ngàn quân cán chính VNCH một cách vô lương tâm, khiến cho họ thân tàn ma dại, gia đình tan nát, cộng sản vô thần độc ác không sao kể xiết.
Thờ phượng đấng chí tôn và yêu người phải đồng nhịp, song hành như bóng với hình. Chúa GiêSu đã yêu mến nhân loại và đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. “Greater love has no man than this, that man lays down his life for his friends”.
Thánh Gioan nói rằng: Nếu ai bảo rằng tôi mến Chúa mà ghét tha nhân thì đương sự là kẻ nói dối. Vì y không yêu mến tha nhân, người mà y thấy, thì làm sao có thể mến Chúa, người mà y không thấy. “If anyone said I love God and hates his brothers, he is a liar, for he has not love his brothers whom he has seen, cannot love God, whom he has not seen”. Trong đời sống hằng ngày, những kẻ nói một đường làm một nẽo thường bị thiên hạ bình phẩm là những kẻ khẩu phật, tâm xà!
Chúng ta là những người hữu thần, tức là tin tưởng có đấng Tạo Hóa, sáng tạo nên vũ trụ và con người, hoặc tin có linh hồn, có hậu kiếp . Các tôn giáo đều khuyên nhân thế sống thánh thiện đời này để đạt đến cứu cánh là đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Chân lý chung quy chỉ có một, không có hai chân lý tối hậu.
Tất cả các phương thức hành đạo chính trực đều như những con suối, con sông đổ vào bể cả. Bể cả đó là chân lý.
Dưới biển cá lớn nuốt cá bé. Trên rừng, thú lớn ăn thú nhỏ.
Con người được thụ tạo đều có lý trí để suy xét và tự do để hành động. Nhờ văn hóa truyền thụ từ đời này sang đời khác, con người thụ hưởng được biết bao nhiêu pho sách thánh hiền, dĩ nhiên là phải biết hoà đồng trên đường tu thân để chuẩn bị về nơi quê thật.
Con người có đủ thông minh, thần trí để biết đường nào phải đi và việc gì phải làm:
Thánh hóa bản thân và phục vụ nhân quần xã hội, tôn thờ đấng Chí tôn.
Tôn giáo là tình trạng thăng hoa của cuộc sống.
Mọi phương thức hành động chính trực đều mang lại bình an trong tâm hồn.
Mọi hành vi thiện ác ở đời này đều sẽ được phản dưởng (feedback) xứng hợp.
Làm tốt được khen ngợi, tâm hồn sẽ được bình thản, trí tuệ được thông minh, cơ thể được khỏe mạnh, hồn lành trong xác mạnh (mens sana in corpore sano). Nhờ đó, quyết định sẽ được sáng suốt, ngôn hành từ tốn, lễ độ sẽ gặt hái được kết quả tốt.
Ngược lại, những người tham sân si, tham lam sinh ra gây hấn, si mê lầm lạc chỉ chuốc lấy thất bại, phiền não.
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Ai quyết tâm đi tìm chân lý và hướng thượng cuộc đời trong tinh thần – Tu là cõi phúc – đều hưởng được sự bình an trong tâm hồn, tức là hưởng được hạnh phúc ở trần gian và sẽ hưởng được đời sống vĩnh cữu mai hậu.
Về phương diện xã hội, chính trị, cộng đồng, phương thức vương đạo
„Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ“ vẫn là hoàng đạo vậy vì “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”.
Trần Xuân Thời