Đã một thời như thế. Trường hợp Bùi Giáng và Phạm Công Thiện 

Đã một thời như thế. Trường hợp Bùi Giáng và Phạm Công Thiện

Hư danh chỉ là hư danh. Tất cả chỉ là hư danh”. (Vanitas vanitatum. Omni vanitatum)

Nguyễn Văn Lục

Phần một: Bùi Giáng giữa chúng ta

Trước đây, vào tháng 9, 2007, tôi đang còn cầy trên báo Tân văn, số 2, tôi có làm một số đặc biệt về Bùi Giáng để trình bày lẽ hơn thiệt. Trong đó có bài của tôi nhan đề: Bùi Giáng giữa chúng ta. Tôi đã xử dụng lối nói ngược để đi đến kết luận:

 Bùi Giáng không bao giờ ở giữa chúng ta cả.

Và để cho cái gọi là “công bằng”, Tân Văn có bài của Nguyễn Huệ Nhật: Bùi Giáng qua cái nhìn của Nguyễn Huệ Nhật (Từ Berlin, Đức Quốc, trích từ Lá thư kính gởi anh Bùi Giáng từ tập thơ “ Ẩn ngữ Thiền Công của Nguyễn Huệ Nhật”). Và quan trọng hơn cả bài của Vũ Ký: Viết về thi nhân Bùi Giáng(Vũ Ký được coi một người bạn và người thầy của Bùi Giáng và Nguyễn Thùy đều là dân Quảng Nam-Đà Nẵng).

Việc đáng kể thứ nhất là tôi đã nhận thức ra một điều “đáng sợ” là có nhiều số báo đặc biệt viết về nhà thơ Bùi Giáng. 

Hợp Lưu số 44, 1998/1999.

Khởi Hành số tháng 2, 1998 với Bùi Văn Nam Sơn( anh em thúc bá với Bùi Giáng)và Bùi Công Luân( em của Bùi Giáng)

Diễn đàn Talawas, tháng 10/2003 với Bùi Giáng, tiếng ca chung cuộc, với 16 tác giả có mặt như Thanh Tâm Tuyền: Hồn thơ bị vây khốn. Nguyễn Hưng Quốc: Cuộc Hòa Giải vô tận. Trường Hợp Bùi Giáng. Phạm Xuân Đài: Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây. Võ Phiến: Bùi Giáng trong Văn học miền Nam.. Và nhiều tên tuổi khác như Đặng Tiến, La Toàn Vinh, Đinh Cường, Phan Nhiên Hạo, Mộc Giai, Nguyễn Viên, Trần Hữu Thực, Bùi Vĩnh phúc..Ấy là chưa kể báo Văn và Diễn Đàn thế kỷ 21.

Tôi như bị ngộp và bị lấn chìm, lạc lối giữa những tên tuổi lớn thành danh. Mặc dù tôi ngu ngơ nhận ra rằng có nhiều “kẻ ăn theo” và nhiều ngoắt nghoéo trong văn trận.

Tôi nhiều lúc cảm thấy bị cô độc, lẻ loi dễ sợ.

Cũng may, trong số đó chỉ có một  sinh viên trẻ là Phan Nhiên Hạo- còn non vốn chữ nghĩa và đi ngược dòng với bài: Bùi Giáng như tôi thấy.

Theo tác giả : “ đại đa số sinh viên văn khoa lúc đó giỏi lắm chỉ nghe tên Bùi Giáng chứ không hề đọc tác phẩm của ông… và muốn đọc cũng chẳng có sách mà đọc…Nhưng tôi đã đọc Bùi Giáng trước đó rất lâu, trong tủ sách của các chú tôi cùng với những tác phẩm của Phạm Công Thiện, Nhất Hạnh, Lê Tôn Nghiêm..Ông điên hay không điên, tôi không biết và cũng không thắc mắc nhiều. Có điều tôi biết, ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. Tôi không thích thơ ông và tôi không chịu được dịch thuật của ông.. và dịch thuật phải nói ông phóng tác thì đúng hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp.. Văn Chương của Bùi Giáng trong những ngày đói kém ở Sài gòn sau 1975 là một loại văn chương quá mông mênh và cũ kỹ đối với tôi. Đó là lý do tại sao tôi đã không cảm thấy một sức hút đặc biệt đối với Bùi Giáng.Một lần đang ngồi ăn cơm của một bà bán cơm gánh trước cổng trường, ông đến ngồi cạnh tôi. Bà bán hàng thấy ông có vẻ rất ngán ngẩm, nhưng không đuổi ngay. Ông cũng chẳng kêu cơm nước gì..Ông dùng ngón trỏ và ngón giữa móc vào nhau tạo thành một dấu hiệu tục tĩu mà trẻ con hay làm. Tay kia cầm một quả chanh, không biết kiếm đâu ra. Ông cố nhét quả chanh vào cái hình ô van tạo nên bởi hai ngón tay, miệng lẩm bẩm: Đây là con c. nhét vô cái l. Kim Cương. Con c. to quá nhét vô không được.”…Ông còn nói vài câu nữa về Kim Cương, toàn những câu rất tục, có vẻ ông bị ám ánh ngày đêm bởi khao khát tình dục với người đàn bà này.

Tôi cũng thấy Bùi Giáng trong một trường hợp khác, rất đáng nhớ. Một buổi sáng  mới khoảng 6 giờ, sinh viên ký túc xá bỗng nghe tiếng la hét từ dãy phòng các sinh viên nữ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe những tiếng la như vậy khi có trộm lẻn vào bên khu nữ. Tôi Vội chạy ra hành lang. Nhìn qua bên dãy nữ, thấy các mái tóc thò ra thụt vào, hết người này đến kẻ khác. Tiếng la oai oái vẫn không ngớt, nhưng bây giờ xen lẫn tiếng cười khoái trá của các sinh viên nam. Nhìn xuống, tôi thấy giữa sân trường, Bùi Giáng đang tư thế trồng chuối, nhưng hoàn toàn.. khỏa thân, quần áo cởi ra hết để bên cạnh. Mấy sinh viên bảo vệ từ ngoài  cổng vô chạy đến, nhét quần áo vào tay ông lôi ra khỏi sân trường. Thật là buổi “ điểm tâm” đặc biệt cho ký túc xá…

Có thể dưới cái bề ngoài điên khùng, thật ra ông đã sống những ngày buồn bã.. Tôi không biết chắc vì tôi chỉ đúng từ xa nhìn ông mà thôi. Đó là những ngày tôi rất đói.

9/2003. Talawas.

Nếu chỉ nói về số đông, tôi bị trấn áp vì cảm thấy một thân một mình. Nhưng điều đặc biệt trong những điều đặc biệt là không một ai có lời khen chê bài viết của tôi cả. Tất cả là sự im lặng mà có nhiều cách thức giải nghĩa.

Tâm lý số đông, người ta, ông A, ông B đã khen không lẽ mình chê.

 Chê thì e ngại vì sợ mất lòng người này người kia.

 Dĩ chí hoặc cho là mình không có khả năng hiểu được thơ hay hay thơ dở. Nhưng không nói ra không đành lòng. 

Kiến thức y khoa thì mỏng, hạn hẹp vì chưa đủ phát triển sâu rộng, có nói ra cũng không đủ thuyết phục một ai.

Có thể nhiều người trong số đó: Nuốt không trôi mà khạc cũng không ra. Đành chịu trận. Và nhiều người trong số đó cho đến nay vẫn chọn làm thinh.

Tôi còn nhớ khi còn là sinh viên Triết đọc Phạm Công Thiện, đọc Bùi Giáng về triết gia M.Heidegger thấy họ viết nổ quá, không biết đâu là đúng là sai, mặc dầu trong phần Triết sử tôi được học có đề cập đến Merleau Ponty, Martin Heidegger và có bài bản. Họ dịch M. Heidegger mà thật ra là họ nói về họ theo sở thích nên chẳng có đầu, có đuôi.

Tuy nhiên thái độ tốt nhất là im lặng, chờ xem. Những tay sừng sỏ trong lớp tôi- dù sao cựa cũng chưa cứng- để giữ mình cũng đều im lặng. Nghi ngờ thì có, đối đáp thì chưa sẵn sàng.

Cũng như khi tôi gồng mình viết xong bài: Bùi Giáng ở giữa chúng ta. Không một phản hồi. Không một ai nhắc nhở trích dẫn. Bài viết từ 2007 đến nay đã mười mấy năm..

Bài viết như rơi vào khoảng không?

 Nếu chỉ nói về con người Bùi Giáng, đã có nhà văn nào dám hỏi tại sao ông đã viết như thế ? Chả nhẽ hỏi chính Bùi Giáng . Hỏi một số nhà văn như Mai Thảo thì câu trả lời khẳng định: Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, trùng trùng một biển văn chương.

Nói như Mai Thảo  thì cạn lời, cạn ý còn gì. Cũng cần nói thêm, Mai Thảo những năm 1962-1963 thường lui tới cơ sở xuất bản An Tiêm của thầy Thanh Tuệ- cái lò sản xuất không ngưng nghỉ sách vở của Bùi Giáng trên đường Lý Thái Tổ nên hẳn có nhiều cơ hội gặp Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đình Toàn?  Cũng đã có lần mượn tay Thanh Tâm Tuyền để ca tụng Bùi GiángMai Thảo hỏi nhà thơ Thanh Tâm TuyềnThanh Tâm Tuyền lắc đầu : “ Chịu không giải thích được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thảy. “ 

Nói chi cũng bằng thừa khi Nguyễn Hưng Quốc với đề tài khá nổ:” Cuộc hòa giải vô tận. Trường hợp Bùi Giáng và di luận: Thứ thơ phi thơ, xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý, xóa nhòa giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung.”

Đó chỉ là những phạm trù suy luận có sẵn, chụp lên trường hợp nào cũng có thể đúng, cho bất cứ tác giả nào, bài thơ nào để rơi vào lối suy luận ngụy biện quen thuộc trong triết học.

Nguyễn Hưng Quốc viện dẫn nhiều tác giả. Nhưng Bùi Giáng quen thuộc xa gần gì đến với Susan Sontag, Ferdinand De Saussure, Frederic de Onitz, Dudley Fitts, Arnold Toynbeen, Jerome Mazzaro….vô số kể.

Liệu những tác giả trên có thêm vinh dự cho Bùi Giáng? Và liệu bản thân NHQ đã đọc, đã nắm bắt được các tác giả trên? Ông thuộc lớp người chỉ trăng! Trăng chẳng thấy đâu chỉ thấy ngón tay của ông múa trước mặt. Mệt với Bùi Giáng rồi. Mệt thêm ông nữa.

Chứng từ của Bùi Công Luận về Bùi Giáng.

Trong bài viết của tôi, tôi đã dẫn chứng BCL:” Sau ngày cưới, anh Giáng dọn ra ở riêng. Bỏ xóm làng, anh đi thật xa về hướng Tây, tận vùng rừng núi. Dường như anh muốn xa lánh, trốn tránh, thậm chí đoạn tuyệt, với một cái gì đó. Có thể là một quá khứ với những kỷ niệm không phai. Có thể là cuộc đời với nhiều bão giông âm ỉ.

 BC L viết tiếp về người chị dâu: Cô con dâu đứng bên mẹ chồng sụt sùi: anh ấy cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá, mua thịt. Đọc tiếp: Phải nhận là chị xinh đẹp, cởi mở, vui tính, hồn nhiên. Lấy chồng được vài ba năm, chị lâm trọng bệnh và đột ngột lìa đời lúc mới ngoài 20 tuổi..Có điều lạ lúc nào chị cũng yêu đời. Không ai có thể nhìn thấy một thoáng lo lắng, buồn phiền phảng phất trên gương mặt trong sáng không gợn một chút ưu tư của chị. Chị chút hơi thở một cách bình thản.”

Tôi đọc xong đoạn trích dẫn này, nếu có một chút lòng đã thấy Bùi Giáng không bình thường. Mới cưới vợ dắt nhau lên ở chốn rừng núi, chăn dê để tự xa lánh, tự cô lập, đoạn tuyệt quá khứ. Thật bất hạnh cho những người phụ nữ lấy phải người chồng bị tâm thần!!

BCL kết rất đắt: Có thể là cuộc đời với nhiều bão giông âm ỉ. Và hầu như không lý gì đến người vợ trẻ mới cưới.

 Lòng tôi nặng trĩu và buồn. Thương cho một kiếp hồng nhan khổ lụy, đọa đầy một cách vô tình kiếp người con gái xinh đẹp. 

Tất cả những tâm tình tiết lộ nhỏ nhoi tầm thường ấy trong sự dè dặt thố lộ của một người em đã không được một một nhà thơ, nhà văn nào nhắc nhở tới.

Nó đặt để tôi vào cái tâm thức:  Thiên hạ khen vì người hay chỉ vì mình.

Cũng may là tôi có thể “gỡ gạc” được một chút “ danh dự” khi đọc nhà báo Võ Đắc Danh cho hay có ba nhà văn vào nhà thương Dưỡng Trí viện Biên Hòa lúc bấy giờ là Bình Nguyên Lộc (bị nhẹ) , nhà văn Nguiễn Ngu Í (1921-1979) và thi sĩ Bùi Giáng.

 Theo hồ sơ bệnh lý còn lưu trữ ghi lại như sau về Bùi Giáng: “ Bệnh tái phát từ tháng tư năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói chuyện huyên thuyên, chơi chữ, la thất thanh, ý tưởng tự cao, tự đại, hay phát biểu ý kiến về  những vấn đề chính trị Văn Hóa, Chính trị, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương.Tháng 3- 1969 bị cháy nhà và bị cháy tất cả các sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi này một nặng hơn.”

Cũng căn cứ vào hồ sơ bệnh lý còn ghi lại. Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969. Lần thứ hai năm 1977. Lần này Nguyễn Ngu Í còn ở trong bệnh viện. Hai người ở khu 3.

Những ghi nhận về hồ sơ bệnh lý tuy rất thô thiển lại rất quý báu cho những ai muốn tìm hiểu con người thật của Bùi giáng. Nhưng xem ra, không ai quan tâm đến điều này và ngay cả muốn né tránh không muốn ai nhắc tới theo cái tâm lý chung của người đời.

Nó cũng dẫn đường cho tôi đến một câu lý luận thông thường: Phải chăng việc thiết yếu là phải tìm hiểu một người điên trước khi hiểu một nhà thơ điên?

Người điên thì làm thơ cũng phải điên. Điên thì nói như thế, hành xử như thế, hát như thế, ăn mặc như thế, cười như thế, chửi như thế, hồn nhiên như thế, không biết giận hờn và nhất là làm thơ như thế!!

 Gọi ông như một triết nhân, một hiền giả, một đạo sĩ “vô tình” có vẻ ép nhau quá.

Nói cho cùng, đó chỉ là cách ứng xử “ bình thường” của một người điên.

 Kể cũng tội cho ông, ông muốn điên mà cũng không xong!! Người đời cứ mong giải lý đời không bình thường bằng cái bình thường.

Vì thế thật lố bịch, khi ông chửi thì thiên hạ vội gán cho ông những đao to búa lớn như “Tâm thức phản loạn” “ thơ phủ nhận thơ.” “thân phận lưu đầy”.

Và cuối cùng coi cõi thơ của ông bằng những kết luận “ không thể định nghĩa “ (indéfinissable) được cũng không bàn cãi nữa. Đành gọi là: Đấng thiên tài.

Ngay cả khi ông nói nhiều thì mệt, vung tay múa chân, chửi om sòm thì mệt. Chửi hết cái “crise” thì nghỉ mệt, nghỉ cho xuôi cơn điên. Ông im lặng. Sự im lặng chẳng có ý nghĩa gì ghê gớm lắm đâu.

Sự im lặng lúc ấy lại được diễn giải như sự trầm tư,  sự đạt cõi, hoặc coi như “ Hố Thẳm” của tư tưởng.

Khi ông dắt một đàn chó và nâng niu chúng thì có nên nghĩ rằng: Ông thấy tình đời đen bạc, đảo điên nên ông yêu chó hơn yêu người và hơn nữa: người không bằng chó?

Về cách xử dụng ngôn ngữ dị thường, chữ mới, chữ đảo ngược, chữ láy, dị ngữ vô tình gán cho chúng như chữ nghĩa của đấng thiên tài.

 Càng bí ẩn, càng không hiểu được càng trở nên hấp dẫn trong vùng tối của tâm linh và “ ngộ” ra điều gì mới lạ tân kỳ, “tới” lắm..

Xin đừng lấy cái tâm lý đám đông như một chân lý áp đảo. Xin đừng lấy cái không hiểu như  một luận cứ của chân lý cao vời, bí hiểm. Rồi ai có cái may mắn “khai mở” ra cái vùng tối ấy thì cứ coi như một ân điển dành cho họ mà không phải cho mọi người.

Và những người không có cái “may mắn” thông hiểu được những “ thông điệp” nhiều khi vô nghĩa, làm xàm vượt ra khỏi trí năng của người bình thường thì không có nghĩa họ dốt?

Đối với cá nhân tôi, cái hay hơn hết là hãy để Bùi Giáng chỉ là Bùi Giáng.

 Tất cả những hào quang dành cho ông chỉ là danh hiệu huyễn hoặc, tự đánh lừa chính mình, lừa cả Bùi Giáng và tất cả mọi người. Hư danh chỉ là hư danh. Tất cả chỉ là hư danh.

Gọi ông bằng danh nghĩa gì cũng tỏ ra bất xứng, vô nghĩa nói gi đến chuyện khen chê mà chỉ là miệng lưỡi người đời.

Tự hỏi có ai muốn mang vác cái thân phận “ lưu đầy” sống vất vưởng, không có ngày mai thế chỗ cho Bùi Giáng chăng? Hẳn là không ai dám nhận lãnh!

Khi ông còn sống, cộng sản còng tay ông bắt về đồn công an. Nào ai can thiệp? Ông sống lang thang, lếch thếc vỉa hè Sàigon nằm ngủ ngoài chợ, đói ăn, đói mặc. Nhà văn nào dơ tay đón đỡ ông?

Xem ra cả một xã hội sống bên ngoài mà ngay cả cái tình người cũng không có. Dưỡng tri viện Biên Hòa nơi chỉ có vào mà ít có ra và hàng chục vạn con người đã chôn vùi cuộc đời nơi đó. Bị bỏ rơi bởi vợ con, gia đình, anh em và mọi người mà trên thực tế số phận của họ có khác gì Bùi Giáng?

 Nếu ở trong một xã hội văn minh và tiến bộ, trình độ dân trí cao, chắc hẳn người người ta sẽ đưa Bùi Giáng vào Dưỡng Trí Viện  Biên Hòa-. Ông sẽ không ngủ bờ, ngủ bụi, bữa đói, bữa no.. Cuộc đời ông sẽ ít ai được nói tới trong một thế giới những người điên. Ở nơi ấy, sẽ có nhiều người điên gộc, điên kinh niên,  điên đao búa, điên đàn anh, ông  “Trùm” điên,thượng thừa.. Bùi Giáng có là gì? 

Ông vốn trước khi điên là một người văn hóa cao nên điên theo kiểu nhà văn, nhà thơ. Người võ biền khi điên dùng bạo lực, đập phá, chửi bới.

Có hàng vạn người điên thì có hàng vạn kiểu điên. 

Phải nói đó là bất hạnh cho ông hay hạnh phúc cho ông? Cả hai từ đó đều không có nghĩa lý gì với thế giới người điên. Hạnh phúc hay khổ đau chỉ có thể xảy ra trong thế giới đời thường.

Thế giới đời thường đã quên và bỏ rơi họ.. Và cuối cùng trách nhiệm dành cho một thiểu số nhân viên, y tá, bác sĩ là những người gần họ nhất.

Hà Nội đi vào vết xe đổ của thời VNCH

Hà Nội có tổ chức cách đây vài năm một: Tọa đàm Khoa học về thi sĩ Bùi Giáng 16-9-2003  với sự tham dự thu hút được rất đông giảng viên, bạn bè và giới mộ điệu. 

Tổ chức như thế với cái nhãn hiệu “Hội thảo Khoa học” là một hình chính thức nhìn nhận Bùi Giáng. 

PGS-TS Võ Văn Sen đã mở đầu lời giới thiệu như sau: “ Bùi Giáng là một nhà thơ kỳ lạ, một nhà nghiên cứu triết học sâu sắc, một nhà phê bình văn học uyên thâm và một dịch giả tài hoa. Tên tuổi của ông gắn liền với văn chương và học thuật Sài gòn suốt từ năm 50 đến năm 1975. Gần nửa thế kỷ sống và viết, Bùi Giáng đã để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ đến gần 60 tác phẩm ở các lĩnh vục thi ca, bình giảng văn chương nghiên cứu triết học và dịch thuật…”

Ông “bầu” Sen đã tuyên bố rất hùng hồn: Triết học sâu sắc, một nhà phê bình văn học uyên thâm, một dịch giả tài hoa..Tôi thật sự không hiểu triết học sâu sắc ở chỗ nào, văn học uyên thâm ra sao, dịch giả tài hoa là thế nào. Tuyền những hoa từ và những lời tâng bốc vô bằng. Ông Bầu Sen còn gán cho Bùi Giáng hồi trẻ đã “ từng đi bộ đội” chiến đấu vì hòa bình dân tộc.

 Tiếp theo là các bài tham luận quen thuộc của Bùi Văn Nam Sơn, Vũ Đức Sao Biển và Tiến sĩ, giáo sư Huỳnh Như Phương (sinh viên văn khoa vào những năm chót trước 1975) vốn đều xuất thân từ miền Nam cứ rập theo cái tinh thần đó mà thao tác. Và cũng không thể nào quên được khuôn mặt Nghệ sĩ Kim Cương đến để trao giải thưởng Bùi Giáng cho các học sinh xuất sắc.

Đây là một buổi tọa đàm khoa học giả hiệu như một tuồng diễu dở mà đào kép và khán giả đều chưa thuộc bài. Phần lớn là chỉ nhái lại những bài bản đã được viết từ thời Tạ Tỵ, Uyên Thao và Thụy Khuê trong “ Sóng Từ Trường”…

Chính vì vậy, môt sinh viên trẻ của trường, Khải Đơn đã viết bài: Bùi Giáng đi bộ  .. với thầy hội đồng. Đến đoạn này, bất thần, thầy đọc rất to như cán bộ tuyên truyền và tuyên bố thêm: Bùi Giáng cùng 5 trí thức viết thỉnh nguyện thư vì Hòa Bình. trí thức  ấy là ai, tên tuổi và thỉnh nguyện thư gửi cho ai? Thầy không nói.

Hà Nội đã vượt Sài gòn một bậc về tài bốc thơm Bùi Giáng. Còn có vị có đề tài là “giải mã cái điên sang trọng” của Bùi Giáng. Ôi! Từ thuở nào lại có cái điên sang trọng. 

“Điên sang trọng” sau này dám đi vào lịch sử văn học lắm! Thật đáng xấu hổ.

Phần Hai: Bác sĩ Nguyễn Đức Phùng trong chuyên đề: Những triệu chứng Tâm Thần Nặng trong thi ca Việt Nam

Ngày nay sức khỏe tinh thần là một thách thức xã hội đối với thế giới con người bên cạnh những lo toan về Biến Đổi khí hậu.

Sức khỏe tinh thần là dấu ấn thời đại. Ngày nay, người ta không còn câu nệ che dấu các bệnh tâm thần như “ một cái xấu cần che đậy” bất kể giới tính, bất kể giầu nghèo, bất kể giai tầng văn Hóa.

Vào năm 2001, tổ chức Y Tế Thế Giới WHO đã ước tính rằng cứ bốn người thì có một người bị rối loạn thần kinh trong cuộc đời.

Đó là một con số báo động đáng lo ngại, mối hiểm nguy cho cá nhân, gia đình, xã hội và kinh tế. Nói chi nỗi hiểm nguy ấy nơi những người lãnh đạo có tác động đưa tới chiến tranh trên quy mô toàn thế giới.

Phần cá nhân người viết. Bài viết về Bùi Giáng của tôi chỉ đưa ra những hiện tượng tâm thần thấy được vì thế không đủ thuyết phục được những ý kiến của đa số người khác. 

Nhưng nhờ có duyên may, do một người bạn là b/s TQK chuyển cho bài của b/s Nguyễn Đức Phùng, một người bạn cùng lớp với b/S TQK, một chuyên gia về Thần Kinh Tâm Thần (Neuropsychiatry).

Bài biên khảo được trình bày tại Đại Hội Quốc Tế  Y Sĩ Việt Nam tự dó, kỳ IV, tại Orlando, Florida vào tháng bảy 1993. 28 năm đã trôi qua mà nay tôi mới được đọc. Tôi mới hiểu thêm thế nào là bị bỏ quên, bị bỏ qua.

Điều đó cũng hiểu được vì sự hiểu biết về khoa tâm thần của miền Nam còn quá thô thiển và chậm lụt. Chính bản thân b/s Nguyễn Đức Phùng và nhiều bác sĩ khác cũng nhìn nhận không thể định bệnh được bệnh tâm thần.

Vì vậy, cũng không đáng trách các nhà văn miền Nam đã có những tuyên bố và những nhận xét xưng tụng sai lạc về Bùi Giáng cũng như Phạm Công Thiện. 

Thú thực bài viết của b/s Phùng giúp gỡ rối được nhiều vấn đề nan giải về các chứng bệnh tâm thần và những giải đáp đề ra tháo gỡ “những huyền thoại” chung quanh Bùi Giáng. Và cũng đồng thời cũng vạch ra cho thấy những triệu chứng tâm thần ở nhiều dạng trong trường hợp Phạm Công Thiện.

Tuy nhiên, tôi bày tỏ chỉ xin tóm lược một phần bài của b/s Phùng theo kiểu biết tới đâu, ghi tới đó vì sự giới hạn chuyên ngành mà tôi không rành rẽ và bạn đọc có thể tự mình tìm đọc bài của b/s Phùng.

  • Về Bùi Giáng

Theo b/s Phùng, có hai nhóm bịnh điên, nhóm bịnh điên toàn diện, còn gọi là bịnh tâm thần phân liệt: Schizophrenia, và nhóm bịnh điên cục bộ: delusional disorder.

Bệnh tâm thần phân liệt và những rối loạn cá tính như:

  • Rối loạn về tư tưởng (thought disorder)
  • Niềm tin quái dị (delusional belief)
  • Ảo giác (hallucination)
  • Những trạng thái cảm xúc và hành động thái độ cử chỉ bất thường (abnormal affect&behaviors)
  • Và điều quan trọng không bao giờ thiếu được là sau vài cơn điên là sự suy đồi, xuống dốc, mất khả năng làm việc, tự lập, tự săn sóc và cách giao tế trong xã hội như hồi chưa bị bệnh(social skilled)..

Áp dụng vào văn thơ, tác giả cho thấy rõ: rối loạn về tư tưởng.Triệu chứng này có hai phần: Rối loạn về hình thức biểu lộ tư tưởng(thought form disorders và rối loạn về nội dung tư tưởng (thought contents.)

A-Rối loạn về hình thức biểu lộ tư tưởng như:

a-Tư tưởng mất mạch lạc, hay trật đường rày(Loosening association or dérailment). Trong khi nói chuyện, tư tưởng nhảy lông bông từ chuyện này sang chuyện khác, không có đầu đuôi liên hệ gì với nhau,làm người nghe chới với, hụt hẫng. Nhưng người bệnh không biết vậy.

b- Lời nhiều nhưng ít ý(The poverty of content of speech: Người bệnh nói thật nhiều, nhưng nội dung không có gì cả, hay mơ hồ (vague) hay quá trừu tượng(abstract)

c-Tạo từ ngữ mới(neologism: Tạo ra chữ mới, hay làm thay đổi lệch lạc một chữ có sẵn(distorted, altered). Chữ mới này thường là vô nghĩa đối với người bình thường.

d-Cấu trúc ngôn ngữ vô lý(illogical construct): Trong lời nói hay câu văn, sự sắp đặt tư tưởng hay các từ ngữ không đúng với quy luật thông thường, làm cho câu văn lời nói lạ lạ.

B-Rối loạn về nội dung tư tưởng: Ngoài những niềm tin quái dị (delusional beliefs) thường gặp như: Nghi ngờ bị hãm hại(per secutory), ghen tương(jealousy) ngông cuồng tự đại(grandiose),tội lỗi (guilt,sin..) mà nổi bật là chứng IDIOSYNCRATIC, kỳ dị không hiểu nổi, hay chỉ có người ấy mới hiểu nổi hay chẳng có nghĩa gì cả(meaningless) vì sự tối nghĩa mà người đọc đã vì lý do khác đã gán cho nó một ý nghĩa theo ý mình. Đó là nguồn gốc của sự hiểu lầm.

  • Áp dụng vào trường hợp Bùi Giáng

Sau khi trình bày một số trường hợp bệnh lý, b/s Phùng áp dụng vào trường hợp thơ văn Bùi Giáng.

Theo ông, “trong một tập thơ gồm 200 bài, được xuất bản tại Canada. Chỉ có một vài bài có vẻ bình thường, số còn lại đều đầy dẫy các triệu chứng tâm thần: Ý tưởng không liên hệ gì với nhau, tạo chữ mới vô nghĩa, tối nghĩa hay chẳng có nghĩa gì và cấu trúc vô lý”.

Một vài dẫn chứng tiêu biểu:

  1. Tối nghĩa hay chẳng có nghĩa gì(idiosyncratic)

“ Chép tờ địa lý đầy vai

Vuông tròn chữ S lạc loài chữ U

Chữ O xẹp lép thiên thu

Hai hàng nhậu nhẹt tạc thù cảo thơm

Ba hàng nhậu nhẹt tinh khôn

Phù du phương cảo vong hồn sử xanh

Om sòm trống trận thiết thanh

Thiên tài vứt bút chòm xanh da trời

Ý tứ không liên hệ gì với nhau, trật đường rầy (Loosening association, de railment. Ý nghĩa của những câu thơ hay đoạn thơ không liên hệ gì với nhau.

  • Tạo chữ mới vô nghĩa (neologisme)

-Tạo chữ mới: “ Cuối cùng trăng mọc cho dzuồng mô dzin, môn lồ gồn cộn lô gôn(trg 30). Huy hoàng hiền đức hức dù dương toa(trg 82)

-Hoặc thay đổi những chữ đã có sẵn như:

“Kiền thủy sinh thành tư mạc trắc( từ: Thiện ác đáo đầu quân mạc trắc)

Lên trời xuống biển ra sông

Chính ông thượng đế là chông bà Trời

Trần gian du hí tót vời

Chính ông Thượng đế là chơi bà trồng.”(trg 82)

Thơ của ông lạ vì ông ráp chữ với nhau thành nhiều từ mới. Với cấu trúc vô lý ấy(illogical construct, ông ráp lại thành những từ ngữ mới, lạ tai mà người bình thường không ai dám dùng. Tỉ dụ:

“ Nền thi nhạc nếp hây hây

Thông minh nếp đắp nước mây cho bèo

Nề vô vi vút vi veo

Nếp vô vị lợi nếp đèo bồng đo

Nếp băng tuyết nếp ty to

Lòng mơ hủ tiếu miệng lồ gồ dâng.” (trg 19)

Để kết luận về phần thi sĩ Bùi Giáng, b/s Phùng cho rằng Bùi Giáng có triệu chứng của hai nhóm bệnh: Tâm thần phân liệt: Schizophrenia với những cơn hưng phấn(Manic episode). Khi thì hưng phấn, khi thì trầm cảm. Khi bị trầm cảm, ông bị bạc nhược không còn năng lượng để đi đến đâu, nhưng khi ông hưng phấn thì xuất hiện khắp nơi, bị rối loạn tâm thấn rất lâu, hầu như mất hết những social skilled mà ông đã sẵn trước đó như từng viết sách, từng đi dạy học.

Cho nên kết luận là ông có cả hai triệu chứng gọi là Schizoaffective disorder, bipolar type. Cho nên không lạ gì ông thường xưng Trẫm, Phật nghe đến tức cười, nên Manic episodes là rất rõ ràng.( hết trich)

Hy vọng phần trình bầy về căn bệnh tâm thần của Bùi Giáng  của b/s Phùng giúp cho nhiều người tỉnh ngộ.

Nhưng tôi biết chắc chắn rằng không dễ gì thay đổi lối suy nghĩ của nhiều trong giới văn nghệ sĩ.

 Họ đã chót nên phải chét, “chân đã lấm bùn”. 

Áp dụng vào trường hợp Phạm Công Thiện

Cũng như trường hợp Bùi Giáng, trước đây tôi có bài viết nhan đề: Đã một thời như thế: Hiện tượng Phạm Công Thiện.

Bài viết gồm hai phần: Mối liên hệ giữa Henry Miller và phần hai quan trọng hơn cả: Thư gửi cho người bạn thi sĩ.

Ở đây, tôi xin chỉ lược tóm.

  •  Những thư trao đổi giữa H. Miller và Phạm Công Thiện đã được in trong tập “ Tribu”, 160 trang (Impression: COREP Toulouse et imprimerie 34 pour le planches intérieures et la couverture ISN:0758-8100. Numéro publié avec la collaboration du Centre de Promotion Culturelle L’Université de Toulouse. Le Mirail.. Dépot légal: 1 er trimestre 1984).

Điều đáng tiếc là Phạm Công Thiện không công bố thực sự những lá thư ông trao đổi với H. Miller, cùng lắm chỉ biết được gián tiếp những lá thư ngắn của H. Miller trả lời cho Phạm Công Thiện.

Điều đáng tiếc thứ hai là không một nhà văn, không một ai như tôi biết, đã không hề nhắc hoặc xử dụng tài liệu này làm chứng liệu tâm thần của Phạm Công Thiện. theo cái tinh thần “ xấu che đi, tốt phơi ra” chăng? Thật, tôi không hiểu được.

Cũng trong Tribu, ông PCT cho biết ông đã cho xuất bản được hơn 20 tác phẩm. H. Miller đã trả lời:

Nhưng trước hết, ông cho phép tôi có đôi nhận xét về khả năng viết đến không thể tưởng tượng(votre incroyable productivité). Ông nói rằng ông đã viết hơn 20 cuốn sách trong vòng vài năm gần đây(…) Ngay cả Balzac, Alexandre Dumas hay Victor Hugo đã không bao giờ có thể viết được với cái nhịp độ như thế.

Phải chăng đây là một nhận xét và sự nghi ngại của H. Miller về tính “thổi phồng” của PCT, dù có thật cũng nên tế nhị?

Nhưng hình như nhận xét của H. Miller không mảy may ảnh hưởng gì đến cách ứng xử của PCT.

Trong thời gian này, hẳn PCT cũng “ tả oán” về đời sống túng thiếu và mong đợi H. Miller giúp đỡ?

 Và lần đầu tiên, H. Miller đã gửi tấm chi phiếu 300 đô la. Và cứ tiếp tục như thế nhiều lần. H. Miller cũng “ tội nghiệp” cho bà vợ và những đứa con trai của PCT và đỡ đần chúng.

 Ngoài ra PCT còn sống nhờ vào bạn bè, nhất là Thi Vũ và ngay cả anh em phía bên vợ.

Theo Thi Vũ, Võ Văn Ái, sống vất vưởng ở nhà Võ Văn Ái, ở số 8 rue Guy de la Brosse, xóm la tinh thì bất ngờ Thượng tọa Thích Minh Châu-viện trưởng viện Đai Học Vạn Hạnh- và giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đến thăm. Thượng tọa nói: “Tôi sang dự Hội nghị UNESCO, nhưng cố ý gặp anh mời anh về giúp Đại học Vạn Hạnh, anh ráng giúp cho một tay….”Tôi nhận lời. Thiện ngồi gần cạnh đó, mặt đỏ gay vì rượu, tóc mọc dài Hippie, có lẽ vì vậy Thượng tọa không để ý. Nhận lời xong, tôi tiếp: “ Xin thầy mời luôn Thiện về cho vui.” Thượng tọa Minh Châu , mặt đỏ rầng, ấp úng: “ Ủa, chú.. chú..? Tôi đỡ lời “ Dạ chú Nguyên Tánh đó!” Thầy Minh Châu nở nụ cười hiền hòa giải thoát y như hai mươi năm trước, thời tôi còn gọi chú Minh Châu và giúp chú đánh bài vở ở Tổng trị sự, đầu đường Thượng Tứ, Huế : “ Ừ thì chú Nguyên Tánh về luôn hí”( Về một bài thơ của Phạm Công Thiện. Thi Vũ.)

Từ một hoàn cảnh ăn nhờ ở đậu. Nay trở thành giáo sư Đại Học Vạn Hạnh. Trưởng phân khoa Văn Học& Khoa học nhân văn Đại học Vạn Hạnh.

Theo anh Lê Khắc Hiển, anh ruột của chị Lê Khắc Thanh Hoài,-vợ Phạm Công Thiện-cho tôi biết vào năm 1971 đã gửi cho cô em gái 1000 đô la, mặc dầu anh lúc bấy giờ cũng chỉ là một sinh viên du học.  Sau này, anh còn cho biết gửi nhiều lần vì nghĩ đến các cháu nhỏ. Nhưng anh cho biết cũng không nhận được một lá thư cám ơn của Phạm Công Thiện.

Năm 1966, lần đầu tiên PCT, đến Paris, theo Thi Vũ, trên Gió-O.com viết:

Phạm Công Thiện sống lang thang nơi vỉa hè Paris, ngày ngày làm đuôi theo đám clochard xin những bữa ăn xã hội. Gặp Trần Hiếu đem về nuôi được mấy hôm, sau đó Thiện về ở với tôi.

Về mối liên hệ với H. Miller xem ra càng ngày càng xấu đi.

Tỉ dụ là trình độ tiếng Pháp của PCT, bạn bè của H. Miller cho biết là họ có cảm tưởng trình độ tiếng Pháp chưa đủ( J’ai aussi l’impression qu’ils trouvent votre francais insuffisant).

Về việc ông mặc áo cà-sa, không biết ông tu tập lúc nào, thời gian tu tập bao lâu, có mức độ nghiêm chỉnh không? H. Miller thật sự nghi ngờ và đặt những câu hỏi nghi vấn này ngay từ năm 1966: Có phải ông thật sự trở thành moine Zen bây giờ? Ông có được truyền chức không? Nếu đúng như vậy thì ông có thật sự trở thành Sidharta (à la Hesse) hay là một bậc thầy vô danh?

Sự nghi ngờ của H. Miller là chính đáng.

 Và đã đến lúc H. Miller phải chấm dứt  với những lời miệt thị đối với PCT, ông viết:

You are no Charlatan, simply one of the most infortunate of God’s creatures. No fault of Yours”.( Ông không là loại người bịp bợm, ông chỉ là một sản phẩm bất hạnh nhất của đấng tạo hóa. Nhưng đó không phải là lỗi của ông).. Ông viết tiếp: Well, I will leave you. It’s like saying “I leave you to your fate”. I won’t try to to give your advice or sympathy. Cheers. Henry. ( Bây giờ tôi phải xa ông. Như thể nói “Thôi để mặc ông với số phận”. Điều đó có thể là điều tốt. Tôi không muốn cho ông ý kiến gì cũng như bày tỏ lòng thương cảm).

*Thư gửi cho người bạn thi sĩ

(Lettre à un poète vietnamien avant son suicide. Tribu, p.51-56. Paris 19/08/1966).

Tôi cho rằng lá thư này bộc lộ trọn vẹn cá tính con người PCT ở trong một trạng thái tâm thần bất bình thường và bệnh hoạn. 

Tao không muốn phê phán quyển Ý Thức Mới, vì có bao giờ mày phê phán con tinh trùng của mày, hỡi NH. Tay Ngàn? Nếu bây giờ, tao muốn viết lại quyển Ý Thức Mới, nhất định tao sẽ viết mạnh hơn, tàn bạo hơn nữa, phũ phàng hơn nữa. Tao đã thấy rõ ràng hơn bao giờ hết rằng tao không nên hòa nhượng, không bao giờ nên làm hòa với cuộc sống này..Thời gian tao ở Hoa Kỳ, tao đã bỏ học, vì tao thấy những trường mà tao học như trường đại học Yale và Columbia chỉ toàn là nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn; ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao.(…)

Qua Pháp, tao đã sống nghèo đói thế nào thì mầy cũng đã biết rồi; những lúc tao nằm ngủ ở những vỉa hè Paris

Vào những đêm đông đói lạnh, những lúc đói khổ như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn ngồi nghe mấy thằng giáo sư đại học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay Hegel, về Heidegger hay Héraclite..Những thằng ấy hiểu gì về tư tưởng mà dạy tao..Bây giờ nếu có Phật Thích ca hay Giê su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao cũng chẳng nghe theo nữa. Tao chỉ dạy tao, tao là học trò của tao và cũng chỉ có tao là làm thầy cho tao. 

Ông viết tiếp: “Shakespeare hay Goethe, Dante hay Heidegger, tao coi như những thằng hề ngu xuẩn..(…)

Tất cả những người quen biết tao đều nói rằng tao là thằng rừng rú, ích kỷ kiêu ngạo, hoang đàng, vô kỷ luật, vô lễ phép,ham ăn, ham uống, ham ngủ, ham làm ái tình:tóm lại, tất cả những tật xấu của con người đều xuất hiện trong tao. Tao thấy họ nói đúng, nhưng họ nói ngược lại thì cũng đúng. Tao là một thằng mâu thuẫn cùng cực, muốn nói chuyện với tao thì đừng lý luận. Vì tao có thể suy luận xuôi hay ngược gì cũng được.”

Cuối cùng thì ngay cả những triết gia như J.P Sartre và S. De Beauvoir cũng chung số phận: “ Nếu họ muốn xin gặp tao. Tao sẽ không cho gặp mà còn chửi vào mặt họ”

  • Sự phê phán các tác giả Việt Nam trong Hố Thẳm Tư Tưởng

Sự phê phán các tư tưởng gia của nhân loại là phần chính yếu trong các sách của PCT. Ông chỉ dành ít trang cho các nhà văn, thi sĩ Việt Nam nói chung. Ngoại trừ trường hợp Nguyễn Văn Trung, ông đã dành hẳn một chương để phê phán nặng nề vào năm 1963, khi ông vừa đến Pháp: “ Đặt lại căn bản học vấn Nguyễn Văn Trung- Phê bình luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Trung hay là tìm hiểu một thủ đoạn phá hoại Phật giáo.”

Trong Hố Thẳm Tư Tưởng, mở đầu đối với Thiền Tông, Phạm Công Thiện viết: “ Tao đã gửi Thiền Tông vào một phong bì tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới.”

Còn đối với văn sĩ, thi sĩ ở Sài gòn : “ Đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn các anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lập đi lập lại vô ý thức hay có ý thức: trí thức “mười lăm xu”; “ái quốc nhân đạo “ba mươi lăm xu”; triết lý tôn giáo “ bốn mươi lăm xu”.

Đã không có một nhà thơ nào lên tiếng. Họ im lặng đến khó hiểu.

Ở những trang cuối của cuốn Hố Thẳm Tư Tưởng. PCT viết:” Hố thẳm Tư Tưởng ra đời để đánh dấu ngày tôi chấm dứt mọi liên lạc tình cảm với Bùi Giáng và Nhất Hạnh”.

Vậy mà ở chỗ khác, PCT ca tụng Bùi Giáng như sau: “ Từ bao giờ đến bao giờ, ông ấy vẫn lỳ lợm bất khuất trước sự đà áp, hành hạ tra tấn, tù đầy khủng bố. Càng lúc chúng ta càng thấy rằng chỉ có những tâm hồn thi nhân lớn lao của dân tộc mới là những con người hành động  lớn nhất, đưa đầu trần, đứng một mình chống lại tất cả thế lực đen tối đang vồ chụp quê hương.” 

Cái ấn tượng chung của tôi khi đọc PCT là sự phủ nhận của phủ nhận, phủ nhận mọi giá trị tôn giáo, triết lý và các tư tưởng gia trên thế giới bằng một thứ ngôn ngữ cuồng vọng trong một trạng thái hystérie, hưng phấn đến độ vọng ngôn, vọng ngữ. Nó phản ảnh một trạng thái tâm hồn có mâu thuẫn giao tranh nội tâm ngoài sự kiểm soát. Đó là sự cao ngạo thay cho sự thực.(L’arrogance remplace le réalisme).

Nó mất hẳn sự tự trọng chính mình vốn là nền tảng của văn hóa và sự tương giao giữa con người.

Nó cũng phản ảnh những ẩn ức tâm thần, bị dồn nén trong nhiều năm và được dịp bùng nổ sau 1963..mà sự hằn thù, chửi bới, nhục mạ có cơ được bùng phát.

Thừa dịp ấy, Cung Tích Biền đăng trên, số 150, 1972 viết:

Ông Nguyễn Văn Trung chỉ là một trí thức phá sản? Ông không có gì để phá sản. Ông chỉ là một kẻ bịp và du đãng văn nghệ. Kẻ bịp kia như thế nào thì đã có ông Phạm Công Thiện làm cáo trạng từ lâu rồi.”

Kha Trấn Ác viết trên tuần báo Đời, số 11, phát hành ngày 27/11/1969 như sau:

Đối với Nguyễn Văn Trung tượng trưng cho sự nông cạn, nô lệ, phá sản của giới trí thức Việt Nam hiện nay. Tên ấy gợi lên sự học vấn lùng khừng, suy tư thiếu máu, cóp nhặt thiếu thông minh, kiêu ngạo, ngu xuẩn, lưu manh, nguy hiểm… Tôi đã tàn bạo khi viết những giòng trên. Phải tàn bạo. Không thể nhẹ nhàng, không thể cảm thông, trao đổi với hạng người trên”.

( Trích “ Nhìn lại những chặng đường đã qua”, kỳ 4, Nguyễn Văn Trung, ngày 08/09/2007)

Để đánh giá về văn tài Phạm Công Thiện, đã có nhiều lời khen ngút trời- cũng như trường hợp Bùi Giáng-.

Nhưng có lẽ cần thiết hơn cả là phải tìm hiểu tình trạng tâm thần của ông trước khi tìm hiểu tác phẩm.

Con người với tâm thần rối loạn, bất định thì tác phẩm ra đời sẽ là sản phẩm ấy.

  • Việc thứ nhất là người ta cứ viết khống là ông “bẩm sinh” ngay từ 15 tuổi đã  “đọc thông và viết thạo” nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, Trung Hoa và Tây Ban Nha, chưa kể tiếng Sanskrit và La Tinh. Nhưng không một ai kiểm chứng được đích xác chuyện này và hầu như thể không ai muốn kiểm chứng. Trong cuốn Ý Thức Mới trong văn Nghệ và Triết học. ông viết: “Tôi vẫn thích viết chữ Phạn, thích nói chữ Phạn, mặc dầu tôi vẫn chưa thuộc hết bảng mẫu tự chữ Phạn”( trích Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, trg 3)
  • Việc thứ hai là chuyện học trường nọ, trường kia, bằng cấp thì có Tiến sĩ triết học Sorbonne( theo thông cáo của Giáo Hội Phật giáo VN hải ngoại), giáo sư đại học Toulouse. Xin thưa rằng trong danh sách các luận án tiến sĩ do Francois Guillemont in lại trong tập san Dòng Sử Việt, trang 137, số tháng  10-12-2007 có liệt kê một số tên tuổi quan thuộc như Nguyễn Thế Anh, Phạm Cao Dương, Pierre Brocheux, Nguyễn Mạnh Tường, Cao Huy Thuần, bà Lâm Thanh Liêm, Devilliers Philippe, Trần Thị Liên Langlet Phillipe, Nguyen Van Ky. Chưa có nguồn thông tin nào cho biết ông PCT lấy tiến sĩ ở đâu, năm nào, đề tài luận án là gi? Cũng vậy, việc dạy triết học ở Toulouse cũng còn là một câu hỏi khác?

Một bằng chứng cụ thể là tôi có điện thoại nói truyện với anh Lê khắc Hiển, anh ruột của chị Lê Khắc Thanh Hoài, du học trước 1975 về truyện bằng cấp. Anh Hiển cho biết LKTH chỉ cười mà thôi, không muốn nhắc đến.  Chị Lê Khắc Thanh Hoài là người có đủ thẩm quyền nhất để xác định về điều này vì đã sống chung với nhau từ năm 1971 và có 5 mặt con. Các cháu đều thành công và giỏi, cháu đầu tốt nghiệp trường École Normale supérieure… Cháu út, con gái là bác sĩ tại Pháp).

Chị chỉ cười mà không trực tiếp đề cập đến rõ ràng, ai muốn hiểu sao thì hiểu.

Và một cách nào đó, nó ứng nghiệm vào ông như ông đã viết: “Tai nạn lớn nhất trong đời tôi là phải chịu đọa đầy làm Thần đồng lúc còn thơ dại, rồi lúc lớn lên làm thanh niên thì phải chịu đọa đầy làm Thiên Tài.”(trích Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, trg 2)

*Phạm Công Thiện với triệu chứng Tâm thần dưới sự lý giải của bác sĩ chuyên khoa Tâm thần Nguyễn Đức Phùng.

Sau đây là phần trình bày bệnh lý của B/s Nguyễn Đức Phùng dựa trên tập thơ NGÀY SINH CỦA RẮN, xuất bản năm 1969, tái bản 1988 tại Mỹ với 12 bài thơ. Tác giả  cho rằng có vài bài hay hay, số còn lại tỏ ra bất thường. Tỉ dụ, ông mửa máu đen trên nửa đêm Paris, ông giao cấu với mặt trời và sinh ra mặt trăng, ông thủ dâm thượng đế sinh ra loài người, rồi ông hô hoán lên là mặt trời có thai và đã sinh cho ông ta một đứa con trai.

Ông cho biết là đang đối diện với một người có rối loạn cá tính, một người không bình thường, nhưng không điên. Trong khi người điên làm người ta sợ hoặc thương hại chứ không tức giận.

Phạm Công Thiện gợi cho thấy rối loạn cá tính đầy rẫy trong tác phẩm của ông. Ông tự cho mình là một thiên tài, ngông cuồng, thay đổi bất thường, mầu mè điệu bộ, giả dối, cải lương và quái đản.

Các dấu hiệu rối loạn cá tính sau đây: Cá tính ích kỷ, tự tôn tự đại, cá tính phường tuồng, cá tính khủng hoảng bất thường, và cá tính cô độc huyền bí (Narcissistic, histrionic, bordeline

And schizotypal personality disorder).

Những cá tính nêu trên, b/s Phùng còn dựa thêm trên bài viết CÒN TUỔI DẠI (CTD), viết năm 1966 và ĐI CHO HẾT MỘT ĐÊM HOANG VU TRÊN MẶT ĐẤT.(ĐCHMĐHVTMĐ), viết năm 1988 để làm nổi bật sự rối loạn tâm thần của PCT.

  • Trong bài viết CÒN TUỔI DẠI( CTD), ông cho biết hồi còn nhỏ, cha mẹ ông mải lo làm giàu, chỉ lo cho người anh của ông, bỏ không chăm sóc gì đến ông. Giữa ông và cha mẹ không có tình mẫu tử gì cả. Sau này, gia đình sạt nghiệp, ông phải đi dạy học để giúp đỡ gia đình. Sự cực khổ ấy đã làm ông nhớ lại sự bất công, thiếu tình thương của cha mẹ từ hồi còn bé. Ông trở nên thù ghét tất cả mọi người và lan ra thù ghét cả nhân loại nữa. 

Ông đã có một quá khứ thời thơ ấu rất đặc biệt của người có rối loạn cá tính. Khủng hoảng bất thường. (KHBT): Bordeline.

Ông còn có triệu chứng rối loạn về chân tướng (identity) rất sớm từ 15 hay 16 tuổi. Ông không biết mình là ai, hỏi đi hỏi lại mãi những câu hỏi của đứa trẻ lên ba. Và say mê đọc sách triết đến điên cuồng, lẩn quẩn loanh quanh. Khi tu khi xuất. khi tu thì phạm giới, khi xuất thì lông bông.

Tâm hồn của ông thật bất thường, cười đó khóc đó, hết giận, rồi ghét, trơ trơ lạnh lùng hay thản nhiên một cách nguy hiểm. (trang 158, CTĐ). Triệu chứng này là gọi: Tình khí bất thường  (affective instability) thường thấy ở người có cá tính KHBT(Bordeline) và người có cá tính phường tuồng ( Histrionic).

Khi dạy học, ông chưởi mắng học trò, hầm hừ với hiệu trưởng,

 hậm hực với mọi người. Đấy là triệu chứng: Nộ khí xung thiên  không đúng chỗ, do thiếu khả năng kiềm chế tức giận (inappropriate intense anger, lack of control of anger) thường thấy ở người có cá tính KHBT.

Ông sống  lông bông, vô nghề nghiệp, đi xin xỏ từng đồng từ những người bạn, nhưng lại thù ghét lòng nhân đạo ấy. Cảm nghĩ bịnh hoạn ấy: dependent and hostile feeling, vừa nhờ vừa thù ghét người ơn của mình. Love-hate relationship thường thấy ở người có cá tính KHBT.

Trong cuốn ĐCHMĐHVTMĐ, ông cho biết là ông thương và kính mến Thảo và Bùi Giáng, nhưng họ là những người ông thường gây lộn, hung hăng chỉ trực đánh nhau (trg.33). Đấy gọi là là hình thức của triệu chứng trên là:Unstable interpersonal relationship của người có cá tính KHBT. 

Ông có triệu chứng rất đặc biệt  của người có cá tính KHBT là: Alternating between extremes of overidealization and devaluation, cảm nghĩ trái ngược cực đoan xấu và tốt trên cùng một con người, một tác phẩm. Có lúc ông thù ghét Khổng Tử, Aristote, Kant. Bây giờ ông kính trọng say mê. Có một dạo ông mê Dostoyevsky và ghét Tolstoy, bây giờ ông lãnh đạm với Doltoyevsky và mê Tolstoy, nhưng ông không nói tại sao!

Ông còn có cá tính cô độc huyền bí:Schyzotypal character. Ý nghĩ quái đản như ngửi thấy mùi địa ngục và cười một mình trong bóng đêm ma dại, hay ngồi suốt đêm trong nghĩa địa trong đêm giao thừa(trg 174, 199, 200, CTD). Sau này đã ba bốn mươi tuổi mà tính quái đản dị thường ấy vẫn còn, như uống rượu và nói chuyện suốt đêm với chó, hay ngồi nói chuyện suốt buổi với chậu hoa thạch thảo.

  • Trong cuốn ĐCHMĐHVTMĐ, dày 332 trang, trang nào cũng đầy  dẫy ngông cuồng, tự cao tự đại Narcissitic character. Ông nói trực tiếp, gián tiếp, nói bóng nói gió, cách này cách khác ông ta là thiên tài. Tự hỏi, tại sao lúc mới 15 tuổi mà đã viết sách rồi? Tại sao nổi tiếng thần đồng? ( tr. 77 ĐCHMĐHVTMĐ).

Tôi không thấy chỗ nào nói về bằng cấp đại học của ông cả. Tôi cũng không thấy ông trình bày có đầu đuôi mạch lạc để chứng tỏ ông có một sự hiểu biết vững chắc về một vấn đề gì thì làm sao làm thầy của thạc sĩ và chấm thi cho tiến sĩ được? Đại học nào cũng có truyền thống luật lệ và tự hào hãnh diện của nó chứ, lẽ nào để một người ăn tục nói phét làm những chuyện mất thể thống được!

Tôi muốn chỉ ra rằng, ông thiếu tự tin(low self esteem) bằng cách lợi dụng tên tuổi những người đã nổi tiếng để làm tăng giá trị của mình.

Qua sách ông viết, tôi thấy tâm hồn ông bệnh hoạn vô cùng. Vì thế những sách ông viết thật bừa bãi không ra cái gì cả.

Cũng may là ông ta có rối loạn cá tính của nhóm không trưởng thành, ngoại trừ cá tính cô độc thần bí, nghĩa là ông sẽ trưởng thành theo thời gian.

Văn là người, người sao thì văn vậy. Người khật khùng thì thơ văn cũng khật khùng. Người loạn trí, rối loạn cá tính thì thơ văn dị thường quái đản. 

Điều ấy gần như một định luật. 

Điều tôi mong mỏi là giúp cho người đọc hiểu được vì sao có những bài thơ, những cuốn sách dị thường quái đản, những cuộc đời bất thường và giúp cho những người trẻ tránh được sự hiểu lầm và bắt chước. Họ không phải là thiên tài gì đâu mà là người điên và người rối loạn cá tính đấy. Biết bao thiên tài, triết gia, bác học, đã sống, đã viết rất bình thường và khiêm tốn nữa, đấy mới là thiên tài đáng cho ta bắt chước.( Hết trích bài biên khảo của b/s Phùng. April/25/1993.

Đôi dòng thay cho lời kết luận

Đọc những luận cứ về tình trạng rối loạn tinh thần và những hệ lụy của nó của một bác sĩ chuyên gia về bệnh tâm thần viết để lại trong thi ca và văn chương của Bùi Giáng và Phạm Công Thiện. Tôi ngộ ra rằng, ai cũng có thể không may rơi vào tình trạng rối loạn tâm thần cách này, cách khác, tùy mức độ và vì thế chẳng nên tranh cãi với bất cứ ai về chuyện đúng sai, vì có thể rơi vào tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt” vô bổ.

Khách quan mà nói, đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, do thiếu hiểu biết về bệnh tâm thần, người ta đã hao tốn giấy mực để bàn cãi ca tụng về những điều đáng nhẽ không nên bàn cãi.

Hy vọng, phần tham khảo của b/s Phùng giúp người đọc, nhất là giới trẻ đừng ngộ nhận và tin tưởng vào những nhận thức của người mắc bệnh tâm thần, tránh vết xe đổ của những người đi trước.

Tuy nhiên, hy vọng là một chuyện, còn được bao nhiêu thì chưa biết? Có những loại người đọc giống như người soi gương, soi gương chỉ thấy chính mình. Họ chỉ đọc cái họ muốn biết, cái họ muốn nghe, cái họ muốn thấy. Sự loại trừ ấy trở thành khuyết tật trong việc mở mang kiến thức tiến bộ và cởi mở.

Về mặt riêng tư, tôi cảm nhận được trong tình người nên cảm thông về tình trạng của Bùi Giáng cũng như Phạm Công Thiện  cũng như một vài người quen biết khác. Họ đáng thương hơn đáng ghét.

Cũng trong tinh thần ấy, viết về Bùi Giáng hay Phạm Công Thiện là viết cho người khác, những “người tỉnh”, những nhà văn còn sót lại.  Hoặc những người quen biết hoặc hệ lụy như chị Lê Khắc Thanh Hoài.

Tôi có được quen biết các con của bác sĩ Lê Khắc Quyến như các anh Lê Khắc Trực, nhất là anh Lê Khắc Hiển qua đó được biết hành trạng của chị Lê Khắc Thanh Hoài- người vợ của Phạm Công Thiện- sau này với 5 mặt con. 

Cuộc đời chị Lê Khắc Thanh Hoài vốn sinh ra ở Huế, thuộc một gia đình có tiếng tăm lâu đời. Chị thuộc loại con nhà, xinh đẹp, ăn mặc thời trang, váy đầm xếp gấp, quý phái, tài hoa và lãng mạn, say mê âm nhạc. Chị được gửi học tại trường Jeanne d’Arc cho đến khi đậu tú tài I. Học âm nhạc đàn Piano với các sơ, rồi vào học Viện Quốc Gia âm nhạc Huế, học 4 năm piano với giáo sư Soeliner, người Tây Đức. Rồi được gửi vào học tại trường Nữ Trung học Trưng Vương, đỗ tú tài toàn phần, năm 1968, học triết học Đông Phương tại Đại Học Vạn Hạnh.

1970, chị du học tại Bruxelles. Do duyên nợ, chị đi về giữa Bỉ và Paris, gặp PCT nên năm 1971 lập gia đình với PCT.

Chị một mình bương trải nuôi con và đến một lúc phải chọn lựa giữa các con và chồng. Chị đã chọn cái quyết định mà một người mẹ nào cũng phải làm và từ đó tránh né xa gần về mối tình lụy.

Vinh danh chả thấy đâu, chỉ thấy hư danh và tình lụy. Nhưng chị vẫn một lòng quý mến PCT không một lời oán trách. Tôi đã đọc cuốn truyện: Người đàn bà năm con cũng như web âm nhạc của chị do anh Lê Khắc Hiển gửi cho. Hình như không một lần nhắc trực tiếp đến PCT.

Thôi đành cũng xong. Đã một thời như thế!!