
Lời Người Dịch
Phan Lê Dũng
Khi nghe hai chữ Trung Hoa có lẽ chẳng có người Việt Nam nào tránh khỏi vấn đề bị đánh động phải suy tưởng ít nhiều. Sự suy tưởng đó nếu chẳng là những vấn đề sôi bỏng của thời sự như những vấn đề nội trị của Trung Hoa, những quan hệ ngoại giao giữa Trung Hoa và các nước khác thì cũng là những vấn đề văn chương như những bài thơ cổ thi Trung Hoa vẫn nổi tiếng ngàn đời phóng khoáng.
Đề tài Trung Hoa với người Việt Nam có thể là một đề tài chính trị cận đại như vấn đề Thiên An Môn, như vấn đề Đánh Tư Sản Mại Bản ở Chợ Lớn, có thể là một đề tài uchính trị đã qua như phong trào Trăm Hoa Đua Nở, như cuộc Vạn Lý Trường Chinh và cũng có thể xa vời như những vần thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ hoặc Bạch Cư Dị.
Sau bao nhiêu cuộc thăng trầm của lịch sử số phận của Trung Hoa dường như đã đi đôi với số phận của Việt Nam và người Việt Nam dường như lúc nào cũng nhìn vào số phận Trung Hoa để rút ra những bài học quý giá về cả các cách nhân sinh quan xử thế lẫn các đòn phép chính trị của người dân Trung Hoa. Đã không biết bao nhiêu thế hệ Việt Nam mang ảnh hưởng Trung Hoa nếu không về phương diện này thì cũng là về phương diện khác, đồng ý với Trung Hoa, bài xích Trung Hoa, vọng ngoại như Trung Hoa, ăn mặc kiểu Trung Hoa, tôn thờ Trung Hoa, khinh bỉ Trung Hoa nhưng có lẽ chưa có thế hệ nào bỏ qua Trung Hoa bao giờ. Yếu tố địa lý đã khiến người Việt Nam cảm thông nền văn hóa Trung Hoa chẳng khác nào như cảm thông chính nền văn hóa Việt Nam.
Trong quá khứ, người Việt Nam đã bị buộc phải hiểu Trung Hoa để giữ tình hữu nghị, bị buộc phải hiểu Trung Hoa để rút ra những giải pháp có thể đem áp dụng vào những quốc sách để giải quyết các vấn đề khó khăn trong nước, bị buộc phải hiểu Trung Hoa để có thể tiên liệu được những đòn phép của Trung Hoa mà giữ vững được nền độc lập. Qua những giai đoạn hiểu biết bắt buộc truyền đời đó, có lẽ sự hiểu biết của người Việt Nam đã trở thành một thứ phản xạ tự nhiên đến độ gần như ai cũng xem chuyện hiểu Trung Hoa là lẽ đương nhiên.
Tuy thế, người Việt vẫn thường hiểu Trung Hoa như một đối tượng chứ ít khi nhìn Trung Hoa như đang nhìn trực tiếp vào những sự suy tưởng của chính mình. Rất ít khi người Việt Nam đặt thẳng câu hỏi Trung Hoa là gì? Trung Hoa suy nghĩ ra sao? Trung Hoa cần phải giải đáp chính những vấn đề khó khăn của họ thế nào? Những câu hỏi này thường là những câu hỏi lớn quá, bao quát quá và có lẽ ngay cả chính người Trung Hoa cũng chưa thể trả lời đích đáng.
Không biết bao nhiêu thế hệ Trung Hoa đã vật vã để trả lời câu hỏi Trung Hoa. Câu giải đáp của Khổng Tử, của Tần Thủy Hoàng, của Tôn Dật Tiên, của Tưởng Giới Thạch, của Mao Trạch Đông, của Đặng Tiểu Bình, của… Mỗi câu giải đáp là mỗi lần các thế hệ Trung Hoa ngã gục. Chiến quốc, Xuân Thu, Chiến Tranh Quốc Cộng, Cách Mạng Văn Hóa, Cách Mạng Đổi Mới nhảy vọt. . . Câu chuyện Trung Hoa dường như không bao giờ biến đổi, tất cả những suy nghĩ về Trung Hoa lúc nào cũng âm ỉ, không dồn dập, nhưng vẫn xoáy tròn như những cơn trốt nhỏ cứ lãng đãng ở tất cả mọi nơi và bất cứ lúc nào cũng có thể quyện lại thành những cơn lốc, cơn bão quyện theo hàng vạn con người quật quã trong độ xoay chuyển. Những cơn bão đó thỉnh thoảng lại đột xuất ra ngoài như chiến tranh Á Phiện vào cuối đời Thanh, như chiến tranh Quốc Cộng trong thế chiến thứ hai, như những chuyến đi đêm ngoại giao của Chu Ân Lai với Kissinger nhưng đa số những cơn bão tố ghê gớm đó vẫn hoành hành âm ỉ bên trong nội địa Trung Hoa. Đối với thế giới bên ngoài Trung Hoa vẫn ngàn đời bí ẩn, thế giới bí ẩn đó được phác họa lại trong Nét Chấm Phá của Bức Điêu Khắc Truyền Thần bằng câu chuyện kể của một thiếu phụ Trung Hoa.
Người kể là một cô bé sang Hoa Kỳ vào lúc tám tuổi và có dịp trở về Trung Hoa với cương vị phu nhân của một đại sứ Hoa Kỳ. Bà về Trung Hoa ngay từ lúc đầu khi Hoa Kỳ bắt đầu bình thường hóa các quan hệ ngoại giao với Trung Hoa và rời Trung Hoa vào lúc phong trào biểu tình ở Thiên An Môn kết thúc.
Câu chuyện mở đầu bằng câu chuyện của một tù nhân dùng một cái chai để đánh dấu sự hiện hữu của chính mình. „Vì chẳng có gì để làm, anh thường nhặt những mảnh kim loại óng ánh thường rớt ra mỗi khi người ta cắt kim loại để bỏ vào một cái chai. . .“ Ấn tượng tù tội được diễn tả thật đột ngột bằng những câu văn thật ngắn và rồi kết thúc thật nhanh. Cả câu chuyện dường như chỉ chiếm trọn vài hàng. Câu chuyện đó dừng lại để trở thành tâm sự người kể, chia hai để mô tả những cảnh tượng khác biệt giữa hai thế giới, một Đông Phương, một Tây Phương, chia hai để diễn tả hai quãng đời trái ngược, một quá khứ, một hiện tại, chia hai để diễn tả hai cảm tưởng của tâm hồn, một suy tư, một hồi niệm và rồi bất thình lình người kể bước ra ngoài để trở thành người nghe.
Từng người Trung Hoa bắt đầu kể chuyện, câu chuyện của người thày giáo bị đấu tố trong cuộc cách mạng văn hóa, câu chuyện của người nữ diễn viên bị ép giữa hai mặt của một cuộc đời, câu chuyện của một học giả tìm nguồn sống bằng tài liệu, câu chuyện của người bác sĩ giải phẫu bị bẻ tay, câu chuyện của người sinh viên ưu tú đánh thày. Tất cả đều được kể lại bằng những khúc hồi tưởng, bằng những câu nói thật mộc mạc, chân thành. Tất cả đều là những người bình thường bị bắt buộc phải đương đầu với những nghịch cảnh khác thường. Cuộc đời của họ gần như đi đôi với nhịp điệu xô đẩy thất thường của các cuộc cách mạng, các phong trào nhảy vọt, của các kế hoạch ba năm, năm năm. Tất cả
đều là những người mang cảm giác tội lỗi. Cuộc đời của họ chẳng khác nào những sợi giây thòng lọng cứ thắt dần, thắt dần. Thỉnh thoảng cũng có những ánh chớp loé lên nhưng gần như tất cả cuộc đời của những người kể đều là những quãng đời nhọc nhằn, tuy thế họ không hề than van. Họ vẫn âm thầm chấp nhận. Có lẽ bốn ngàn năm ảnh hưởng của Khổng, của Lão, của Phật đã khiến họ sẵn sàng chấp nhận tất cả. Ưu tư của họ nếu có chăng thì cũng chỉ là về những thế hệ sau. Họ muốn bảo tồn những cái họ cho là đáng bảo tồn nhưng không còn giá trị gì đối với xã hội của con cháu họ. Họ muốn con cái họ thông cảm những vấn đề chẳng ai thông cảm họ nhưng con cháu họ chẳng muốn nghe „con cái cho bố mẹ chúng nó là những người dại dột.“ Tâm hồn bình lặng của họ có lúc trong sáng như mặt nước Đại Hồ nhưng có lúc lại sâu thẳm quanh co chẳng khác nào bức tường Vạn Lý Trường Thành. Ngay cả những lúc nói chuyện họ cũng chẳng thể nói trực tiếp. Họ mượn những cuộn băng để tránh phải kể chuyện trực tiếp. Có thể là họ sợ bị chính quyền truy nã một khi câu chuyện của họ được viết ra mà cũng có thể họ đã quên mình trong câu chuyện, câu chuyện của họ vượt lên trên câu chuyện của một cá nhân để trở thành câu chuyện điển hình của từng giai cấp. Tất cả đều kể bằng hai quan niệm, vừa đem kinh nghiệm điển hình của bản thân để làm cho câu chuyện linh động và sát với cuộc sống, vừa bỏ qua tên tuổi để cho câu chuyện có tính cách đại biểu chứ không phải là câu chuyện của riêng một cá nhân.
Song song cùng quyện vào lời kể của những câu chuyện ghi lại là câu chuyện gia đình của người kể. Cuộc đời của người kể cứ vòng quanh và xoáy dần vào quá khứ. Câu chuyện của chính bản thân, của người em ruột bị bỏ lại ở Trung Hoa, câu chuyện họ nội qua người cô, người chú, câu chuyện họ ngoại qua những người dì, người cậu đi ngược lại đến thế hệ trước, thế hệ trước nữa và thế hệ trước nữa. . . Câu chuyện đôi khi nghiệt ngã như tấm hình nội tổ của người kể bị Vệ Binh Đỏ gạch mặt, đôi khi thảng thốt như câu chuyện hài cốt của bà nội người kể trong chỗ thờ
không còn bức di ảnh, đôi khi bàng hoàng như mảnh mộ bia của ông ngoại người kể bị xéo đi trong khi ngôi mộ bị san bằng. Dường như người kể trở về Trung Hoa để cố tìm hiểu chính ngay cả cuộc đời mình „Tôi thấy một người đàn bà ngoại năm mươi đang đi giữa…“ Dường như ở đâu người kể cũng tìm. Người kể nhìn vào chính những suy nghĩ của mình, nhìn vào những cuộc sống bên ngoài, nhìn qua đôi mắt khách quan, nhìn bằng đôi mắt chủ quan, nhìn sang bên, nhìn về phía trước, phía sau. Đôi khi người kể nhận diện được mình phần nào qua câu chuyện của một người em họ „Nếu là tôi chắc tôi đã không đủ can đảm để chôn cất bà ngoại được như ý!“ Đôi khi người kể xuất thần đến gần như tiếp xúc được với những mối dây vô hình ràng buộc với tổ tiên: „Ông ngoại tôi an nghỉ ở Tô Châu, mộ ông nằm dưới bóng mát của một bụi trúc… Phiến đá đó là di tích, của ông ngoại tôi, của chúng tôi, của cội nguồn gia tộc. Chính nhờ vào phiến đá đó mà những thế hệ sau này dù không còn nói được tiếng Trung Hoa, dù trông không còn giống người Trung Hoa vẫn có thể nhìn vào đấy để cảm thấy những cảm giác cội nguồn của mình như tôi đã cảm thấy khi đứng trước mộ ông ngoại chiều nay…“
Tất cả những câu chuyện kể lại đều có dính dáng ít nhiều đến chính trị, đều được mở đầu bằng chính trị. Có lẽ tất cả những phong ba trong cuộc sống của những người kể đều bị các động cơ chính trị thúc đẩy. Chính trị hiện diện một cách lạ lùng như thể vừa ở bên trong mà cũng vừa ở bên ngoài câu chuyện. Chính trị hiện diện chẳng khác nào những thực tế xảy ra trong đời sống Trung Hoa, chẳng khác nào những nét điêu khắc đang khảm, tạc khuôn mặt Trung Hoa. Có lúc chính trị thôi thúc chẳng khác nào kêu gọi người dân Trung Hoa vùng lên, có lúc chính trị lại dửng dưng, lạnh lùng như đòi hỏi người dân Trung Hoa phải chấp nhận những gì nằm trong tầm với. Các chương sách lồng vào nhau thật là kỳ lạ. Đề tài của những cuộc đời của hai người, của nhiều người của từng người mà dường như vẫn chỉ là câu chuyện của một người. Nếu không có những
mảnh ngoặc () đánh dấu đôi khi người đọc không thể phân biệt được câu chuyện nào là câu chuyện của chính bản thân người kể, câu chuyện nào là câu chuyện người kể được nghe và ghi lại. Câu chuyện miên man dường như chẳng bao giờ kết thúc, đoạn nào cũng chỉ là những đoạn chỉ mới vừa được phác họa và còn cần được kể rõ chi tiết thêm. Người kể đã lồng câu chuyện của mọi người vào câu chuyện của gia tộc nhà mình, lồng câu chuyện gia tộc của mình vào câu chuyện chính trị của toàn thể Trung Hoa. Chuyện kể vừa là ký sự, vừa là tâm sự vừa là lịch sử viết lại bằng những cuộc đời của những người Trung Hoa đã sống như thế trong hàng thế kỷ.
Câu chuyện tuy là những câu chuyện thật viết hoàn toàn trong khung cảnh hiện tại mà vẫn pha đậm những nỗi xót xa khiến người đọc không khỏi lúc thì nhớ đến chuyện Ăn Cơm Chưa của Bình Nguyên Lộc, lúc thì cảm thấy nỗi bâng khuâng trong chuyện Những Bước Chân của Lỗ Tấn hoặc cảm thấy những bế tắc không lối thoát của những nhân vật trong chuyện Kalfka.
Tất cả những câu chuyện kể bùng ra như những mảnh vụn của một trái phá, thoạt nhìn thì dường như mỗi mảnh bay đều bay về một hướng hoàn toàn độc lập và khác hẳn nhau nhưng nếu nhìn kỹ thì dường như tất cả những mảnh vụn đó đều phụ thuộc vào chiều hướng nguyên thủy ban đầu của trái phá trước khi chưa nổ. Quỹ đạo của những mảnh vụn li ti đó là những nét điêu khắc tạo nên hình ảnh truyền thần của khuôn mặt Trung Hoa.
Phan Lê Dũng.
Vienna, 11/1/1992
Mời đọc tác phẩm qua bản PDF :